Khiemnguyen

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Văn phẩm Hồ Chí Minh (phần 3)




VĂN PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT TRONG NHỬNG NĂM 20
VÀ THƠ CA CA TRÍ THỨC CÁCH MẠNG

Trích từ Văn học Việt Nam
(1900 – 1945)
 


Những người đương thời đọc những văn phẩm của Nguyễn Ái Qụốc viết bng tiếng Pháp thường tự hỏi những bài báo ngn gọn, sao lại thể khuấy động được tâm hn của những người mất nước, của người lao động bị áp bức đến thế?”[1] và cảm thấy “người rn rật như lửa đốt bên trong”[2]. Những văn phẩm này chọc thủng vòng lưới st” của thực dân Pháp, v Việt Nam, vào các thuộc địa của Pháp. Thanh niên trí thức nước nhà mê mải đọc, làm như học trò gạo cụ vậy[3] những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc và “suốt ngày nghĩ đến nó[4]. Những điu như vậy giúp bạn đọc hôm nay hình dung một cách cụ th - lịch sử sự lay động tâm hn, sức thấm sâu về tư tưởng và thẩm mỹ của những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc, trong đó có truyện ngn Người biết mùi hun khói với nhân vật trung tâm Kimengo, đối với độc giả đương thời.
Vì sao truyện ngn Người biết mùi hun khói với nhân vật trung tâm Kimengo lan rộng và thấm sâu vào thức nhận của độc giả ?
Thứ nht, viết truyện ngn này, Nguyễn Ái Quốc đã nương theo tâm lý lạc quan lịch sử có tm vóc nhân loại trong những năm 20 của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới tiên cảm thắng lợi của cuộc cách mạng toàn cu đang xích li gn. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 như sự khởi động dòng thác lịch sử biến người nô lệ thành người tự do đã tạo nên tâm lý lạc quan vĩ đại đó (376). Sng trong và sống bng tâm lý lạc quan lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc cm hứng đế viết một truyện ngn như vậy với một nhân vật trung tâm như vậy.
Thứ hai, khc họa hình tượng Kimengo và nước Cộng hòa Liên hiệp Phi, Nguyn Ái Quc tìm chỗ dựa ở Lênin, ở những phẩm cht cách mạng đã được rèn luyện và tích lũy ca chính tác giả, ở nước Nga Xô viết, các dân tộc thuộc địa lúc bấy giờ đang thức tỉnh... Ở đây bộc lộ khả năng phi thường của văn học chăm chú theo dõi, tìm kiếm và khám phá những ngun mạch vận động của cuộc sống - xã hội trong một hệ thống lớn hơn - hệ thống, mang lại những quan hệ mi, những tác động qua lại mới, những phương tiện mới, hệ thống, nhờ nó, nhà văn có th nhận thức đúng hơnrõ hơn sự phát triển của hệ thống nhỏ. Nh vậy, văn học có thể đưa ra trước bạn đọc những điển hình nghệ thuật chưa có những nguyên mẫu trong cuộc sống - xã hội hệ thống nhỏ ấy, nhưng sớm muộn chính ở đấy sẽ xuất hiện những điển hình hiện thực tương hợp trong mức độ này hay mức độ khác với những đin hình ngh thuật đó. Thật vậy, Cách mạng tháng Tám 1945 đã giới thiệu với toàn thế giới Chủ tịch Hổ Chí Minh như một lãnh tụ kiểu mới của phong trào giải phóng dân tộc; nhìn vị lãnh tụ hiện hữu trước quốc dân đng bào Việt Nam, bạn đọc nhớ đến nhân vật Kimengo của truyện ngắn Người biết mùi hun khói...
Thứ ba, viết Người biết mùi hun khói, Nguyễn Ái Quốc vận dụng những kinh nghiệm nghệ thuật đã được thử thách bởi thời gian của phương Đông và phương Tây - như nghệ thuật gián cách không gian, thời gian; nghệ thuật mô tả cuộc sng trong hình thức cụ thể - lịch sử và cả trong hình thức ước lệ, khi hình thức cụ thể - lịch sử tỏ ra bất lực, không giúp tác giả thể hiện thành công sự vận động của quy luật phát triển xã hội. Viết truyện ngn này, Nguyễn Ái Quốc đã đón được sự chờ đợi v thể loại văn học của độc giả phương Đông và phương Tây - những độc giả quen thuộc với những tác phẩm có tính chất viễn tưởng, như Suối hoa đào của Đào Uyên Minh, Thành thị mặt trời của Campanela, Trên phiến đá trắng của A. France,... Nh thế, tác giả đã thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái sự vận động của thời gian từ chủ nghĩa thực dân lên chủ nghĩa cộng sản chỉ bng một truyện ngắn, nghĩa là Nguyễn Ái Quốc đã dn nén bộ tiểu thuyết s thi nhiu tập vào một Người biết mùi hun khói. Nguyễn Ái Quốc nhn mạnh vị trí dẫn đạo của giai cấp công nhân trong thời đại chúng ta. Trọng quan hệ này, bút ký Đoàn kết giai cp có ý nghĩa quan trọng. Anh công nhân da đen Hose là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Đó là một chiến sĩ giác ngộ cao, đặc biệt là hiểu rõ sức mạnh không gì chiến thng nổi của đoàn kết giai cấp, tích cực hành động để cải biến hoàn cảnh và cải biến nó có hiệu quả, tin ở mình và ở lý tưởng cách mạng của mình (377).
Kimengo và Hose là những nhân vật tích cực của văn học chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Khẳng định cuộc sng mới tươi đẹp và con người mới đầy sức mnh lý tưởng, Nguyễn Ái Quốc chăm chú theo dõi, nhìn sâu vào sự phát triển của hiện thực thời đại, thấy rõ xu thế phát triển của nó. Sự kỳ diệu chưa từng thấy đã xuất hiện trên trái đất này: Cách mạng tháng Mười Nga, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Lênin, lãnh tụ và là người thy của cách mạng thế giới. Chính hiện thực cuộc sống đó đã trực tiếp khúc xạ vào Nhật ký chìm tàu, vào các bài báo Lènin và các dân tộc thuộc địa, Lénin và phương Đông, v.v... của Nguyễn Ái Quốc. Ghi lại những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ý nghĩa quốc tế của nó, Nguyễn Ái Quốc là người đu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam xây dựng hình tượng nghệ thuật v Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết. Người thay mặt nhân dân các nước thuộc địa đang thức tnh trong ngọn gió lớn của lịch sử cảm nhận v Lênin như v những thánh nhân trong truyn thuyết phương Đông: “Đúng, những người da đen và da vàng chưa có thể biết rõ Lênin là ai, nước Nga ở đâu. Bọn đế quốc thực dân bưng bít không cho họ biết... ; Nhưng tất cả họ, từ những người nông dân Việt Nam đến những người sản bán trong các rừng Đahômây, cũng đã thấm nghe nói rng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột và hiện đang tự quản lý lấy đất nước mình mà không cn tới bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rng nước đó là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lênin... Họ còn được biết rằng người lãnh tụ vĩ đại này, sau khi giải phóng nhân dân nước mình, còn muốn giải phóng các dân tộc khác nữa. Người kêu gọi các dân tộc da trng giúp đỡ các dân tộc da vàng và da đen thoát khỏi ách áp bức của bọn ru-mi, của tất cả bọn ru-mi, Toàn quyn, Công sứ, v.v... và để thực hiện mục đích ấy, Người đã vạch ra một cương lĩnh cụ thể”[5]
Trong những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc có cái cưi châm biếm, đả kích kẻ thù. Đó là sự phủ định thế giới cũ. Đó cũng là sự biến dạng của sự khẳng định thế giới mới, khác với văn học yêu nước của các nhà chí sĩ, trong khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đã vang lên tiếng kêu bi thống: “Nòi giống ta biết có còn không?”.
Trong cái cười của Nguyễn Ái Quốc có sự hài hòa, tổng hợp cái cười kín đáo của văn học truyn thng Việt Nam, cái cười dí dỏm, ý vị của văn học dân gian nước ta, cái cười tế nhị ở người Pháp, cái cười lạnh lùng của người Anh. Nguyễn Ấi Quốc gây cười bng cách xây dựng những hình tượng trong hình thức của bản thân sự vật, không ngại sử dụng nhng hình ảnh có tính chất hoạt kê: “Có một linh mục chân đi đất, qun vén đến mông, lưng đeo bao da đy đạn, vai khoác súng trưng, bên hông git súng lục, cha dẫn đu một đàn con chiên vũ (378) trang bng giáo, bng dao rựa, bng súng kíp”[6]. Người cũng đã làm bt lên tiếng cười bàng cách tạo dựng những hình tượng ước lệ, tượng trưng, chẳng hạn kịch Con rng tre.
Người nước ngoài nhìn thấy trong cái cười của Nguyễn Ái Quốc du hiệu của một “nền văn hóa tương lai”[7].
Vi Nguyễn Ái Quốc, thời mà chiến sĩ lúc “lâm hình” quắc mắt nhìn k thù và cười một cách bi phẫn, đã qua, thời mà “người nô lệ không chịu ch là chiến sĩ, đã trở thành người chiến thng”[8], đã đến.
Trong khi những nhà n tư sản, như Paul Moran thể hiện trong tác phẩm của họ sự sợ hãi và hoảng loạn trước thng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mưu toan làm mất tín nhiệm của nhân loại đi với những tư tưởng và mục tiêu đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước châu Âu, tuyên truyên về “sự thất bại không thể tránh khỏi ca các lực lượng cách mạng, thì Nguyễn Ái Quốc cùng với các nhà văn Pháp, như H. Barbusse, P.Vaíllant Couturier, R. Rolland, A. France, phê phán phủ định chủ nghĩa đế quốc thực dân, ch ra sự tiêu vong tất yếu của nó, đng thời khẳng định xã hội mới, những quan hệ mới giữa con người với con người, xây dựng hình tượng nghệ thuật về con người kiểu mới - con người giác ngộ, v những khả năng khách quan cải tạo thế giới và cùng với qun chúng nhân dân biến những khả năng đó thành hiện thực. Đó là chỗ khác biệt căn bản của những văn phẩm Nguyễn Ái Quốc so với văn học yêu nước của các nhà chí sĩ và văn học của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Những văn phẩm ấy mang tính đảng cộng sản sâu sắc, cháy sáng lý tưởng xã hội chủ nghĩa và ch nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa cao đẹp.
Như vậy, những văn phẩm viết trong những năm 20 của Nguyễn Ái Quốc - con người tổng hợp trong bản thân mình nhà chiến lược nhìn xuyên suốt các quá trình cách mạng của thế giới và nhà nghệ sĩ lĩnh hội được những tinh hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại - là những văn phẩm của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, những văn phm chứng tỏ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng quốc tế.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc là sự lý giải, minh chứng kết quả và triển vọng của sự phát triển lịch sử của cuộc vận động của loài người, bao gồm các dân tộc thuộc địa, lên chủ nghĩa xã hội (379).
Nét độc đáo nổi bật đó gn bó với điều kiện hoạt động cách mạng, hoạt động báo chí, tuyên truyn tổ chức của Nguyễn Ấi Quốc ở nước ngoài, do đấy, gán bó với những thể loại ngn của văn học châu Âu lúc y. đây tác gỉa đã cô đặc, dn nén không gian, thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai - ba hiện thực của cuộc sống xã hội. Người đọc đương thời, khi đọc những văn phẩm như vậy của Nguyễn Ái Quốc hy vọng mãnh liệt vào tương lai tươi đẹp của đt nước, của hành tinh này và phn đâu dũng cảm, bền bỉ cho tương lai y. Sức mạnh nghệ thuật ca ngòi bút Nguyễn Ấi Quốc chính là ở chỗ đó.
Những văn phẩm viết trong những năm 20 của Nguyễn Ái Quốc là hệ thng văn học rộng nht, so với văn học yêu nước của các chí sĩ và văn học mới của trí thức tân học.
Với hệ thống văn học này, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một mẫu mực v hiện đại hóa và dân tộc hóa nền văn học Việt Nam. Nghĩa là văn học phải trở thành một bộ phận hợp thành của phong trào giải phóng dân tộc tiến lên ch nghĩa xã hội. Đi trên con đường đó, những chiến sĩ - nghệ sĩ của văn học cách mạng của giai cấp vô sản Việt Nam đã trở thành những nghệ sỹ của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những nhà văn, nhà thơ của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cũng sẽ đi trên con đường này để trở thành những nghệ sĩ của phương pháp nghệ thuật mới... Tất cả những điu nói trên xác định vị trí và ý nghĩa đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc trong văn học Việt Nam./. (380)


[1] Bùi Lâm. Gặp Bác ở Pari, trong sách Bác H, NXB Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 139.
[2] Bùi Lâm. Gặp Bác ở Pari, trong sách Bác H, NXB Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 139.
[3] Thép Mới, T mnh đất Thăng Long (báo Nhân dân, 26- 1-1975)
[4] Thép Mới, T mnh đất Thăng Long (báo Nhân dân, 26- 1-1975)
[5] Lenin và các dân tộc thuộc địa.
[6]  Bán án chế độ thực dân Pháp.
[7] O.Manđenxtam, dẫn theo N.I. Niculin. Đồng chí H Chí Minh, sự ra đời ca văn học cách mạng Việt Nam đề tài Việt Nam trong văn học Nga nửa sau thế k XIX, Tp chí Văn Học, 3-1974
[8] Hng Hà. Bác H ở Bỉ, báo Nhân Dân. 11-12-1909.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét