|
Phan Ngọc
(Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du)
|
Cho đến nay việc phân
tích văn học về mặt nghệ thuật gặp rất
nhiều khó khăn. Nhà giáo, nhà phê bình khi nói đến hình thức một tác phẩm, thường chỉ bó hẹp vào những nhận xét chung
chung, vào một vài dẫn chứng. Dĩ nhiên, cảm thụ thẩm mỹ của các nhà giáo, nhà
phê bình là rất quan trọng, và cảm thụ ấy thường giúp họ đưa ra được những nhận
xét đúng và hay. Nhưng điều không thể tránh được, đó là để có được một trình độ
cảm thụ nhạy bén, phải trải qua một thời gian học tập rất gian khổ, phải có rất nhiều kiến thức, và nhất là phải
là người rất tinh tế. Nếu không phải là người tinh tế, thì học vấn và kiến thức
cũng không giúp chúng ta thành một nhà phê bình sâu sắc về mặt hình thức.
Thứ hai, dù cho nhà giáo và nhà phê bình có tinh tế đến đâu, họ cũng không sao
truyền thụ được cái tinh tế của mình cho người nghe, người đọc, và cách làm việc vẫn còn thiếu một hệ thống thao tác
chặt chẽ khiến người tiếp thu tin tưởng vững chắc như tin vào một chân lý khoa
học.
Tình hình này không gây
khó khăn cho lắm khi sáng tác văn học là việc riêng của một vài nhà văn, khi
thưởng thức văn học là việc riêng của một vài nhà phê bình, và tìm hiểu văn học cũng là việc riêng của một vài người. Nhưng
khi muốn tạo (333) nên một
phong trào quần chúng để sáng tác và thưởng thức muốn dạy văn học cho hàng
triệu con người, và muốn lãnh đạo sáng tác nghiên cứu phê bình cho có kết quả, thì thực tế vốn kinh
nghiệm của một người không còn
đầy đủ nữa. Và ta bắt buộc phải xây
dựng một khoa học để lý giải cái đẹp trong ngôn ngữ. Phong cách học với tính cách một bộ phận của ngôn ngữ học cần phải làm việc đó. Công trình này là một thí nghiệm về hướng này.
Nó thử đưa ra một cách tiếp cận mói đối với một tác phẩm hết sức quen thuộc với
nhân dân Việt Nam
để bạn đọc thấy ngay trong lĩnh vực nghệ thuật vẫn có thể đưa ra những đánh
giá, nếu không phải
là khách quan, thì ít nhất cũng dựa trên một hệ thống thao tác có thể kiểm tra
được. Để làm điều đó, người viết cần phải tiến hành một sự thức nhận (prise de conscience) trong công việc của mình nhằm tháo gỡ cái mỹ cảm của
chính anh ta, xem thử mỹ cảm ấy, mà mới thoạt nhìn có vẻ giản đơn, trong thực
tế là được tạo nên bởi những yếu tố gì. Trong công việc này, những hiểu
biết sách vở là rất
quan trọng, và anh ta cần phải biết kinh nghiêm làm việc trong và ngoài nước,
từ kinh nghiệm rất phong phú của truyền thống từ chương học Trung Quốc, đến
kinh nghiệm phê bình, lý luận phong cách học của phương Tây, không kể kinh
nghiệm nghiên cứu trong nước về Truyện Kiều. Nhưng điều khó nhất
không phải ở đó.
3. Điều khó nhất là thái độ chân thành, triệt để khách
quan, nỗ lực phân tích đến cùng cái mỹ cảm của mình, chỉ tin vào cái gì được
quy ra thành quan hệ rõ ràng và tách bạch, không để cho một định kiến
nào chi phối, dù định kiến ấy có được cả giới ngôn ngữ học thừa nhận. Phải kiểm tra lại tất cả, và khi cần, phải tháo gỡ tất cả, làm lại từ
đầu. Thái độ ấy không phái (334) của
tôi. Tôi làm gì có được cái khí phách ấy? Đó là của Đảng. Tôi chẳng qua là con
em của một dân tộc được Đảng lãnh đạo đã tiến hành một sự thức nhận triệt để
các quan hệ giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc, đã tháo gỡ tất cả cái
tình hình chính trị và quân sự của đất nước tôi ra thành những quan hệ rõ ràng
và tách bạch, đã kiểm tra lại tất cả, và đã hành động độc lập đúng với xu thế khách quan. Cho nên tôi cũng cố gắng tháo
gỡ cái mỹ cảm của mình, quy nó ra thành quan hệ. Công việc kết quả đến đâu, tôi
không dám khẳng định, chỉ biết rằng mình phải tiến hành công tác này hết sức
mình và hết đời mình.
4. Khi tiến hành công tác quy mỹ cảm ra thành quan hệ, tôi thấy cảm thụ thẩm
mỹ của ta trước một câu thơ hay không phải là một cảm giác trực tiếp, mà khúc
xạ qua bốn hệ thống quan
hệ. Để cho dễ hiểu, ta hãy so sánh, cách ta thưởng thức một câu thơ của
Nguyễn Du, với cách
ta ngắm một bông hoa. Tôi thiên về những so sánh bình dị, bởi vì tôi sống ở một
thời đại trong đó nhiều hoạt động xưa nay gọi là cao quý đã có thể đưa vào máy
như làm toán, đánh cờ, thậm chí soạn nhạc, mà sở dĩ người ta làm được thế cũng là nhờ biết quý những hoạt động cao cấp của tư duy về những thao tác đơn giản.
5. Ấn tượng thị giác của ta về một bông hoa trước hết là do cấu tạo của con
mắt ta quy định. Nghiên cứu sinh lý học con mắt giúp ta hiểu khả năng và hoạt
động của thị giác con người. Trong việc thưởng thức một bài thơ, muốn hay
không, ta cũng phải thưởng thức qua cấu trúc của ngôn ngữ mình. Mọi ngôn ngữ, tuỳ theo cấu trúc của nó, sẽ có
những cách lựa chọn riêng không giống cách lựa chọn của một ngôn ngữ khác. Khi
ta dịch một bài thơ Nga ra một
bài thơ Việt, ta thấy ngay cái (335) phần dịch được và cái phần hầu như
không dịch được. Cái phần dịch được, đó là tất cả những gì liên quan tới tư duy
bằng khái niệm. Cái phần không dịch được, là cái kiểu lựa chọn của tiếng Nga
khác của tiếng Việt. Do đó, muốn thưởng thức nghệ thuật tiếng
Việt, phải xây dựng một công trình về cấu trúc phong cách học của tiếng Việt
với tính cách toàn bộ các kiểu lựa chọn của một ngôn ngữ đơn tiết. Và
chỉ trên cơ sở đó ta mới tìm được cách chuyển các cách lựa chọn của tác giả
sang cách lựa chọn của tiếng Việt. Chúng tôi hy vọng trước khi chết trình bày
được cái cấu trúc phong cách học của ngôn ngữ dân tộc làm nền tảng cho mọi sự
lựa chọn mà cha ông ta và chúng ta đã làm. Cấu trúc phong cách học này của
tiếng Việt không giống cấu trúc phong cách học của bất kỳ ngôn ngữ nào, dù đó
là tiếng biến tố như các ngôn ngữ Châu Âu, hay tiếng đơn lập như tiếng Hán và
các ngôn ngữ Đông Nam Á. Ngay cả một biện pháp như câu đối mà ta tưởng
là bắt chước Trung Quốc thì cách thể hiện ở Việt Nam vẫn khác xa cách thể hiện
ở Trung Quốc, bởi vì cấu trúc phong cách học mỗi nơi một khác. Phong cách học
có cái chung cho loài người, và có cái riêng cho từng ngôn ngữ, cũng như thị
giác giữa người với động vật có cái chung và cái riêng. Trong quyển sách này,
chúng tôi cố gắng phân xuất ra cái chung trong phong cách học của mọi ngôn ngữ
để có một cơ sở khách quan xây dựng phong cách học tiếng Việt.
6. Chúng ta nhìn không phải chỉ bằng đôi mắt mà
bằng cả toàn bộ thực tiễn sống và sản xuất của mình. Sinh lý học dạy ta trong
võng mạc ta có hai hình ảnh (vì có hai mắt) đảo ngược, nhưng ta lại thấy độc
một vật và không bị đảo ngược. Trong
việc thưởng thức nghệ thuật mỗi người thưởng thức với (336) tất cả kinh nghiệm sống và hoạt động mà dân tộc mình đã trải qua. Dù anh
ta không muốn, anh ta cũng phải làm thế. Nếu ta đối lập cách nhìn của chúng ta
về văn học với cách nhìn này của Đông Nam Á, thì sẽ thấy ngay điều ấy.
Ở Đông Nam Á, nói đến văn
hoá, người ta nghĩ ngay đến kiến trúc, điêu khắc, vũ, rồi mãi sau mới
nghĩ đến văn học. Nếu văn học Đông Nam Á thấm nhuần sâu
đậm tính chất tôn giáo
và lúc đầu vay mượn đề tài, chủ đề ở Ấn Độ, còn văn học thế tục thì tương đối
muộn. Cái thế giới bên kia tác động rất mạnh tới con người Đông Nam Á. Ở Việt
Nam thì khác, nói đến văn hoá người ta nghĩ ngay đến văn học, thậm chí nhiều người chỉ nghĩ đến văn học. Nền văn học ấy mang
tính sáng tạo
ngay từ đầu và gắn liền với cuộc sống con người. Cái thế giới bên kia không tồn
tại trong văn học Việt Nam. Trong suốt quá trình lịch sử mà ta theo dõi được,
tức là trên mười thế kỷ, văn học Việt Nam là văn học - công dân, gắn bó với nghĩa vụ đối với dân, với
nước. Nó không chấp nhận một cuộc sống nào ngoài cuộc sống thực tế trong hoà
bình và độc lập. Đó là nét bất biến khu biệt rất rõ văn học Việt Nam với mọi nền văn học. Người Việt Nam
sống với những khái niệm cụ thể “đất nước, làng xóm, cha mẹ, vợ
con, bè bạn, họ hàng, đồng bào”, cho nên nghệ thuật - văn học của họ giữ tính mức độ, không có sự quá đáng,
khoa trương, và văn học là văn học
về tâm trạng. Một số những đặc điểm này ta thấy trong Truyện Kiều.
7. Ta nhìn một vật là
nhìn với kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ấy thay đổi, cho nên sự đánh giá khác
nhau tuỳ theo lịch sử. Đông Nam Á và Việt Nam cho con rắn là đẹp, và trong điêu
khắc, hội hoạ, đâu đâu cũng có rắn hay rồng (337). Ở châu
Âu, người ta ghét rắn, cho nên mô-típ rắn hầu như vắng mặt. Ngày
xưa, ta cho răng đen
là đẹp, răng trắng là xấu, bây giờ thì ngược lại. Cho nên trong phong cách tác phẩm thế nào cũng có
phong cách thời đại.
Trong công trình này,
chúng tôi có trình bày một số điểm làm thành phong cách thời Lê mạt - Nguyễn
sơ. Phong cách thời đại thay đổi rất rõ rệt. Nếu ta lấy vấn đề tồn tại của đất
nước làm nền tảng cho sự phản ánh của thực tế xã hội vào văn học, thì ta sẽ
thấy sự biến đổi của phong cách thời đại rất rõ ràng, thậm chí đi từ cực đoan
này sang cực đoan khác. Ở thời
Lê mạt - Nguyễn sơ, xuất hiện cá nhân yêu cầu hạnh phúc. Nhưng khi giặc Pháp
lăm le chiếm đất Việt Nam, khi cái hoạ mất nước đe doạ người dân yêu cuộc sống
hoà bình, độc lập, thì lập tức cá nhân đòi hưởng thụ biến mất và con người -
bổn phận ra đời. Lục Vân Tiên là bản
trường ca mới của dân tộc, bản trường ca cùa con người bổn phận. Con người bổn
phận, không hề nghĩ đến cá nhân mình, đã làm chủ văn học yêu nước ở miền Nam, và văn học Cần Vương. Từ 1885 khi nước mất, đến 1905, có một giai đoạn hoang mang: ý thức hệ phong kiến sụp đổ, nhưng hệ tư
tưởng mới chưa xuất hiện. Đó là giai đoạn của
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, tiếng cười phê phán - tự phê phán xuất hiện,
trong tiếng cười nghẹn ngào tiếng khóc. Nhưng
từ 1905 đến 1912, khi tiếp nhận tư tưởng canh tân đất nước, thì cái cảnh hoang
mang biến mất, văn chương bốc lửa chiến đấu, mà hình ảnh
tiêu biểu là văn Đông Du và văn Đông Kinh nghĩa thục v.v...
8. Cuối cùng, phải nói đến phong cách thể loại. Thể
loại có thể ra đời rất sớm, nhưng phải đến một giai đoạn lịch sử nhất định, nó
mới được định hình, trở thành một tiếng nói mới của (338) nghệ thuật và xây dựng được phong cách của nó.
Khi xét như vậy, một tác phẩm lãn đồng thời là kẻ thừa kế và kẻ đổi mới thể
loại. Truyện Kiều thừa
kế thể loại truyện nôm bằng thơ, là thể loại để phục vụ quần chúng, không phải
để phục vụ triều đình và nho sĩ. Nhân vật chính của thể loại này, đù đó là Ngọc
Hoa, Cức Hoa, Thạch Sanh, Lục Vân Tiên hay Kiều, phải là con người mà cuộc đời
và tâm sự là gắn bó với quần chúng. Y phải trải qua những cảnh ngang trái, bất
cồng, phải nếm những đau khổ của quần chúng lao động. Và cũng như quần chúng
lao động, y phải trong trắng, cao quý, đẹp đẽ, được tin cậy và thương yêu. Nếu
như lớp nho sĩ ném tiền cho các cô ả đào để nghe ca ngợi những lạc thú của nhân
sinh, thì những người bình dân sở dĩ nuôi sống những người hát rong đi kể truyện nôm cũng chỉ là để thấy họ
được khẳng định công khai, nhân cách họ là cao hơn quan lại, vua chúa, chỉ có
họ mới là thực sự tài giỏi, cứu nước, cứu nhà, và phải đánh giá con người ở bản chất, không phải ở địa vị.
Chữ Tâm trong Truyện Kiều không phải chữ Tâm Phật giáo. Nếu là chữ Tâm Phật giáo, tại sao trong
toàn bộ quyển truyện không nói một chữ đến nội dung của chữ Tâm này? Mà làm
điều đó có khó gì? Kinh Phật nào chẳng nói tràng giang đại hải về chữ
Tâm ấy. Chữ Tâm trong Truyện Kiều
không phải là một khái niệm triết học, nó chỉ là chữ Tâm bình thường trong tâm
can, tâm địa, Nó là cái chữ Tâm của
Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa. Đó là cái lòng thương người,
cái bụng của ngưòi bình dân. Đây cũng là một cách đánh tráo khái niệm như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ dùng
thuật ngữ Trang Chu để đưa tư tưởng thị dân vào. Trước Nguyễn Đu, Nguyễn Huy Tự viết Hoa tiên vào thời thanh niên, nhưng sau
về già, ông cho việc (339) làm ấy
là không đứng, khuyên con cái đừng bắt chước mình. Ông này giống như “đứa con ngỗ nghịch” trong Kinh thánh, sau khi đã
trải qua nhiều thử thách, quay trở về với đẳng cấp. Nguyễn Du lại khác. Ông viết Truyện
Kiều khi đã về già để khẳng định sự
đoạn tuyệt với gốc rễ nho sĩ. Không phải ngẫu nhiên
mà Cao Bát Quát hết lời ca ngợi Truyện Kiều và Hoa
tiên, bởi vì nhà thơ
chữ Hán lớn nhất của thời đại cũng đã thực hiện một sự đoạn tuyệt như vậy.
Nghiên cứu Truyện Kiều trong phong cách thể hiện truyện nôm, ta thấy tác giả thừa hưởng những
cái hay của thể loại, nhưng cũng còn phải chịu một vài nhược điểm của nó. Cái
hay là ở tâm trạng, ở ngôn ngữ, ở sự cố gắng xây dựng một cách diễn đạt gần
nhân dân. Nhưng nhược điểm vẫn còn: phần thể hiện hoàn cảnh khách quan không
mãnh liệt mà còn chiều theo khuôn sáo, đưa yếu tố thần linh vào không tự nhiên,
những khuyết điểm chung của hầu hết các truyện nôm. Khi xét một tác phẩm qua bốn lăng kính, là cấu trúc phong cách của ngôn
ngữ, phong cách của dân tộc, phong cách của thời đại, phong cách thể loại, ta
tìm ra được độ khúc xạ và nhiệm vụ của phong cách học tóm lại là giải thích cái
độ khúc xạ này.
9. Nghiên cứu phong cách của tác giả và tác phẩm, cần
xét trong mối quan hệ qua lại vói phong cách thời đại và phong cách thể loại, để phân xuất ra những nét khu
biệt. Cách làm này có thể áp dụng cho mọi nhà văn lớn, những người thực sự có
một phong cách riêng. Vì công trình này là công trình đầu tiên công bố khi các
khái niệm cơ bản của phong cách học chưa được xây dựng, nên việc khảo sát phong cách tác giả phải tiến
hành cùng một lúc với việc khảo sát các
khái niệm khác (340), do đó cái phần dành cho cá nhân họ Nguyễn không được nhiều. Để cho đỡ
hời hợt, chúng tôi chỉ tập trung vào một điểm: về biện pháp, chúng tôi chỉ nói
đến phương pháp phân tích nội tâm; về ngôn ngữ, chúng tôi chỉ nói đến tính đa dạng.
Trong tình
hình hiện tại, khi cách tiếp
cận về phong cách theo ngôn ngữ học mới ở bước đầu, chứng tôi thấy không có
cách nào khác. Thà mang tội là phiến diện, còn hơn là hời hợt. Goethe nói “Văn học
là một mảnh của một mảnh”. Tôi thấy câu đó rất cần thiết cho người dạy văn học.
Khi dạy, một nhà văn chỉ nên
chọn một điểm, điểm xuất sắc nhất của nhà văn đối với văn học dân tộc, nhưng phải phân tích cho kỳ xong.
Nếu phân tích mọi điểm, khó lòng tránh khỏi khuôn sáo. Trái lại, đi con đường
xoáy vào điểm có một điểm lợi về phương pháp: nếu phân tích phong cách Nguyễn Du thành công,
thì sự phân tích phong cách các
nhà vãn cùng thời với ông sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Ta sẽ không phải làm lại nhiều điều đã làm và một số mô hình về thực chất đã có sẵn chỉ cần làm việc thông kê giải thích kết quả mà thôi.
10. Chúng tôi biết rõ công
trình của mình có nhiều thiếu sót. Nhất là cách làm việc đòi hỏi nhiều tư liệu, lại phải tính, phải
đếm, phải lập hết mô hình này đến mô hình khác, hết giả thuyết này đến giả thuyết khác trước khi tìm được mô hình và giải thuyết
mà mình cho là tạm ổn. Sau đó, lại kiểm tra, lại thấy sai, rồi phải bác bỏ, làm
lại. Chúng tôi không dám kể công, bởi vì dù có là người giỏi nhất thế giới về
ngôn ngữ học, cũng không thể nào làm khác được. Nhà phong cách học
có mỹ cảm tinh tế là rất đáng quý. Nhưng nếu anh ta chưa nói bằng quan hệ ngôn ngữ, bằng mô hình, thống kê, tỷ lệ, đối lập, thì người nghe có quyền không tin (341).
11. Theo chủ nghĩa Mác, khi trong xã hội có một vấn đề được đặt ta, thì đã có
cách giải quyết nó rồi. Những vấn đề như chữa lỗi ngữ pháp cho học sinh, giúp
học sinh và giáo viên giảng văn học cho có kết quả, điều có thể giải quyết được
bằng ngôn ngữ học một cách không những có két quả, mà còn xong xuôi, đâu ra
đấy. Ngôn ngữ học có khả năng làm được nhiệm vụ mà xã hội yêu cầu. Vả lại,
chúng ta đã bước vào một thời kỳ khác trước. Trước kia, nghệ thuật bị hạn chế
về không gian, thời gian, hoàn cảnh. Một người hát chỉ có một nhóm người nghe
được, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, cách diễn xuất của người hát lại bị
hoàn cảnh chi phối: hôm nay anh ta hát có thể hay, nhưng ngày mai có thể kém. Với sự xuất hiện của kỹ thuật, các hạn chế ấy đều
biến mất. Một người hát, tiếng hát
đưa vào băng ghi âm có thể truyền khắp thế giới, hình ảnh đưa lên vô tuyến viễn thông có thể
truyền khắp trái đất. Khi tiếng hát đã được ghi lại, ngưòi nghe muốn nghe lúc
nào cũng được, cũng in hệt như trước. Nhưng vào cuối thế kỷ này, giữa người hát
và người nghe có kỹ thuật chen vào với hàng triệu con người lao động kỹ thuật.
Lúc này, thưởng thức nghệ thuật đối với những con người lao động kỹ thuật kia, mà số người sẽ ngày càng đông
thêm, có nghĩa là giải mã và chuyển mã. Phải giải thích phong cách Nguyễn Du
cho những con người ấy. Họ cần nắm phong cách Nguyễn Du để chuyển nó thành
nhạc, thành ba lê, thành kịch, để dịch sang các ngôn ngữ khác, để vẽ, để biến sự thưởng thức nghệ thuật từ chỗ thu hẹp vào một
dân tộc, sang một thưởng thức chung cho mọi ngưòi trên trái đất. Các em học
sinh chúng ta đều thuộc cái thế hệ mới này và ta phải chuẩn bị điều đó cho các em ngay từ khi ở nhà
trường. Việc quy nghệ thuật thành thao tác làm việc (342), thành quan hệ, không phải là một thứ thị hiếu
nhất thời, mà là một yêu cầu có thực trong tình hình khoa học kỹ thuật hiện
đại. Nếu không nắm được phong cách Truyện Kiều cho thực đúng, làm sao làm được những công việc nói trên?
Tài giỏi như Nguyễn Du mà
còn chỉ dám nói “Mua vui cũng được một vài trống canh”, người
viết công trình này cũng không dám mơ ước gì hơn. Mong rằng, mặc dù có nhiều
thiếu sót, công trình này sẽ góp phần giới thiệu với bạn đọc về nhà thơ yêu quỷ
của chúng ta dưới một khía cạnh mới: Con người lao động./.
|
Hà Nội, tháng 10 năm1984
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét