Khiemnguyen

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Hãy tắt TV, bạn sẽ thấy nhiều thứ đáng xem hơn

Con người hiện đại đang đang mất quá nhiều thời gian dành cho việc dán mắt vào màn hình TV mỗi ngày. Chuyên gia của trường đại học Queensland (Australia) nhận định: “Xem TV có những ảnh hưởng ngược đối với sức khỏe, cũng tương tự như thiếu vấn động, béo phì và hút thuốc. Mỗi giờ xem TV có thể khiến chúng ta tổn thọ 22 phút”. Bên cạnh đó, việc xem TV quá nhiều cũng khiến con người bị tách rời khỏi đời sống thực tế, là nguy cơ dẫn đến nhiều biểu hiện bệnh lý về tâm thần như trầm cảm, rối loạn hành vi ứng xử...
Hãy tắt TV, bạn sẽ thấy nhiều thứ đáng xem hơn trong đời sống thực mà mỗi khoảnh khắc đều là quý giá.

Đó là một cuộc sống gia đình đầy ắp tiếng cười.
Những đứa trẻ đang vui chơi dưới ánh nắng mặt trời.
 Sự ấm cúng khi cả gia đình cùng chuẩn bị cho bữa ăn.
 Những giai điệu của niềm đam mê... Nguồn: RED/ Theo UNICEF



Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Một số thuật ngữ Báo chí



1. Bài báo (article).
Trong một quan niệm rộng rãi, không có tính chuyên ngành, bài báo là bất kỳ văn bản nào có tác giả công bố trên mặt báo, trừ các mẩu tin. Trong quan niệm mang tính chuyên ngành, bài báo là một tác phẩm báo chí có nội dung và hình thức hoàn chỉnh, xuất hiện như một bức thông điệp chứa đựng một thông tin cốt lõi, có mô tả, lý giải rõ ràng, cụ thể, lôgic và dễ hiểu một sự kiện, hin tượng hoặc một vấn đề, quan niệm nào đó đang có ý nghĩa thời sự và ý nghĩa xã hội quan trọng.
Tác giả bài báo phải tìm kiếm các mối liên hệ, xác định nguyên nhân, h quả, phân tích, xếp loại sự kiện, bổ sung các bằng chứng và đưa ra được những nhận định khái quát. Nội dung bài báo được tạo bởi những tư tưởng, quan niệm cơ bản, mang tính chính thống hoặc là quan niệm của một tập thể, cộng đng kết hợp vi các luận chứng, chứng cứ cụ thể. Bên cạnh đó, bài báo bao giờ cũng chứa đựng thái độ chủ quan của tác giả qua sự đánh giá, phân tích, qua cả kết cấu, ngôn ngữ, bút pháp, vì vậy những bài viết thành công thường được xếp vào khu vực những tài liệu truyền thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu và quản lý xã hội. Có thể tính ra nhiều dạng bài báo thuộc nhiếu thể loại khác nhau, như: bài bình luận, bài xã luận, bài phân tích, bài phản ánh, bài tiểu luận, bài phóng sự, bài điều tra, bài ghi nhanh, bài tường thuật, bài phê bình tác phẩm văn nghệ. Các bài tiểu phẩm, bài phỏng vấn và những bài viết không có tính nghị luận, không tính chủ thể rõ rệt thường không được coi là bài báo, tức là không được xếp vào nhóm thể loại thông dụng nêu trên.
“Bài báo” là một thuật ngữ không có sự thống nhất về nội dung giữa thực tiễn sử dụng và nghiên cứu lý thuyết. Ngay cả các nhà báo chuyên nghiệp hàng ngày vẫn có thể sử dụng từ “bài báo” chỉ để phân biệt với các sản phẩm không phải là “bài”, như Tin và Ảnh, giống như các gọi thông thường của độc giả. Trong nghiên cứu thuyết, xuất phát từ các tài liệu báo chí học Nga và Đông Âu, ở Việt Nam, khái niệm “bài báo” chỉ được giới hạn trong phạm vi những bài đưa tin dài, đôi chỗ còn được gọi là thể loại “bài thông tấn”.

2. Bút danh (pseudonym).
Là biệt hiệu của tác giả in trên sách, báo. Việc không sử dụng tên chính thức mà dùng tên tự đặt để khẳng đinh vai trò chủ thể và quyền sở hữu tác phẩm có thể xuất phát từ nhiều lý do khác nhau:
- Lý do an ninh chính trị: tác giả cần bí mật để tự bảo vệ mình trước nguy cơ truy tố, khủng bố cá nhân.
- Vì nhu cầu tính thần: đặt bút danh theo kỉ niệm riêng tư, nhằm gửi gắm một ý nguyện, ước mơ, kỳ vọng nào đố.
- Vì sinh kế phải mượn danh tác giả khác.
Trong trường hợp thứ ba, khi tác giả phải công bổ tác phẩm của mình dưới tên của bạn bè đồng nghiệp, người Hy Lạp có danh từ đặc biệt để chỉ bút danh nàyallonym (phân biệt với pseudonym).
Vic sử dụng bút danh đã xuất hiện từ thời cổ Hy Lạp - La Mã, nhưng nó chỉ trở nên phổ biến và quen thuộc khi nghề in sách phát triển mạnh. Các nhà văn lớn như Molière, Voltaire, Stendhal, Mark Twain, Anatole France, M. Gorki đều dùng bút danh. Để tránh sự kiểm duyệt nhà nước và sự tẩy chay của các toà báo, nhà báo - nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ A. Nesin phải dùng tới hơn hai trăm bút danh. Các nhà văn trung đại Việt nam đều có tên chữ, tên hiệu giống như bút danh.
Nhà văn - nhà báo Ngô Tất Tố thuộc số tác giả có nhiều bút danh nhất trong làng báo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi công ước Bern ra đời, nhiều nước châu Âu, điển hình là vương quốc Áo - Hung, quyền tác giả có hiệu lực cho đến năm thứ 50 sau khi tác giả qua đời, nhưng đối với các tác phẩm dùng bút danh thì thời hạn có hiệu lực đó chỉ kéo dài có 30 năm. Thời hạn này hiện nay vẫn còn đang được tranh luận và không được thực thi ở nhiều nước tham gia công ước.
3. Ký (journalese sketch)
Ký là thuật ngữ đại diện cho một nhóm thể loại văn xuôi tự sự không hư cấu, được sử dụng chung trong cả văn học lẫn báo chí, như: bút ký, ký sự, phóng sự, du ký, hi ký, nhật ký v.v. Ký phân biệt vi truyện ở tính chất tài liệu hiện thực, thái độ tôn trọng sự thật, kiềm chế những tưởng tượng nghệ thuật và hạn chế ti đa lối sáng tác hư cấu. Ký có thể lấy cốt truyện làm điểm tựa để triển khai chủ đề, song thường là những cốt truyện ít kịch tính. Trong quá trình tái hiện sự thật đời sống, ký chú trọng tới những vấn đề xã hội hơn là những tính cách cọn người cụ thể. Do vậy, đọc ký, người đọc quan tâm tái chủ đề hơn là nhân vật, đồng thời nhìn nhận ký như một thể loại của báo chí nhiều hơn văn học.
Khởi thuỷ, ký là hình thức ghi chép các sợ kiện thực tế và những nhận đinh chủ quan mang tính chính luận. Từ thi Phục hưng ở châu Âu, ký đã xuất hiện và nhanh chóng chiếm vị trí của một thể loại xung kích trong việc khai sáng tri thức giải phóng tư tưng con người. Sang thế kỷ XIX, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực, ký trở thành thể loại đắc dụng đối với nhiều nhà văn. Các nhà văn Pháp như E. Suy, H. Bandắc, G. Xăng và nhiều nhà văn hiện thực Nga đều có những đóng góp trong thể ký. Trong văn học Trung Quốc, ký được dùng như một thể loại khảo cứu phong tục và điều tra xã hội học. Các thể tản văn, ký sự lịch sử, ký lục, chí... từ thời Tây Hán đến đời Thanh đều hết sức phong phú, đa dạng, tạo thành một “hạ tầng kỹ thuật” bề thế cho sự ra đời của báo chí và văn xuôi tự sự hiện đại sau này.
Ký là một “loại”, bao gm nhiểu “thể” khác nhau. Dung lượng, độ dài ở mỗi thể, mỗi bài cũng hết sức cơ động, linh hoạt. Nội dung phổ quát của ký vẫn là những ấn tượng nếm trải tươi mới, sự tiếp xúc với những con người, sự kiện đặc biệt, cùng với những kỷ niệm không thể lãng quên. Vì cầm bút với ý thức của một chứng nhân đời sống, người viết ký có thể nắm bắt từ một hình ảnh nhỏ thoáng qua của dòng đời tới một phác thảo có ý nghĩa khái quát bản chất đời sống xã hội, trong khi vẫn chấp nhận cả những trang mô tả nhật trình của một chuyến viễn du lãng mạn. Trong các thể ký, phóng sự được coi là thể “em út”, vì các đặc tính như ấn tượng chủ quan, sự chứng kiến tận mắt trong ký sự, bút ký, du ký, nhật ký... chính là những yếu tố tiền thân, chuẩn bị trước cho sự ra đời của phóng sự.
4. Ngôn ngữ báo chí (journalistic language)
Là ngôn ngữ đặc trưng của các quá trình chuyển tải thông tin báo chí.
Báo in truyền thống bao gồm nhiều thể loại (tin tức, tường thuật, phóng sự, phỏng vấn, bình luận), mỗi thể loại lại có những yêu cầu ngôn ngữ riêng, phù hợp với đặc điểm truyền thông của thể loại. Do vậy ngôn ngữ báo chí một mặt được hiểu như là tổng thể các ngôn ngữ thể loại. Sự đa dạng của thể loại dẫn tới sự đa dạng của ngôn ngữ báo chí. Mặt khác, khái nim ngôn ngữ báo chí được xác lập ch yếu trong sự khu biệt với khái niệm ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ đời sống tự nhiên. Trong tương quan so sánh đó, nếu như đặc trưng của ngôn ngữ văn học là tính nghệ thttật và hiệu quả thẩm mỹ, thì đặc trưng của ngôn ngữ báo chí là tính chính xác, hàm súc, khách quan và hiệu quả truyền thông tối ưu, tức là nhằm chuyển tải trọn vẹn và nhanh chóng thông tin tới người nhận. Tin vn là thể loại biểu hiện rõ rệt và tập trung nhất đặc trưng của ngôn ngữ báo chí.
Trong phát thanh và truyên hình, “ngôn ngữ báo chí” của chúng lại thực hiện chức năng biểu đạt theo yêu cầu loại hình truyền thông mới. Ngôn ngữ phát thanh phải thật chọn lọc, rành mạch, dễ hiểu, hạn chế từ láy, từ tượng thanh, phù hợp với thời lượng phát sóng và vượt qua những trở ngại của sự tiếp nhận thính giác, theo dòng thời gian tuyến tính “một đi không trở lại”. Trong truyền hình, ngôn ngữ không giữ vị thế độc tôn, toàn trị như trong báo in, mà chỉ là một trong những yếu tố quan trọng, cấu thành hệ thống các phương tiện chuyển tải thông điệp, như: hình ảnh (động, nhanh, chậm, tĩnh, to, nhỏ), âm nhạc, tiếng động, lời thuyết minh, dẫn chuyện, thông báo... Nhờ ưu thế vượt trội của tín hiệu truyền hình - thành quả tổng hợp của điện ảnh, phát thanh, báo in, công nghệ thông tin, kỹ thuật truyền phát sóng, ngôn ngữ trong truyền hình là hệ thống ngôn ngữ có chức năng hỗ trợ, bổ sung, hoàn chỉnh thông điệp. Ngôn ngữ truyền hình được giảm tải thông tin so với ngôn ngữ báo in và phát thanh. Cũng vì vậy, ngôn ngữ truyền hình luôn có xu hướng ly tâm, rời khỏi trục xoay của ngôn ngữ báo chí, tiếp cận thường xuyên vi ngôn ngữ đời sống. Đó cũng là thứ ngôn ngữ đa thanh, phức điệu, không giới hạn lập trường phát ngôn. Chương trình “Khách mời truyền hình” và các cầu truyền hình trực tiếp thể hiện rõ nhất đặc điểm của ngôn ngữ truyền hình.
5. Sự kiện (fact, event)
Là một hiện tượng vất chất, tinh thần nào đó đã xảy ra, được nhận biết là có ý nghĩa xã hội quan trọng, tức là ít nhiều thể hiện đặc tính chung của một tập thể cộng đồng, thời đại và nhân loại.
Trong hoạt động truyn thông, sự kiện được quan tâm như là một đối tượng phản ánh chủ yếu, trực tiếp và cấp thiết của báo chí và văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, bất cứ sự kiện nào cũng có hai mặt chủ quan và khách quan trong nhận thức con người. Sự kiện nảy sinh, tồn tại trong giới hạn không gian và thời gian, cho nên nó có thể quan trọng từ góc độ nhìn nhận này mà lại không quan trọng ở góc độ nhìn nhận khác, có thể có ý nghĩa khi đặt trong quan hệ này mà không mấy ý nghĩa trong quan hệ khác. Xuất phát từ lợi ích chung của nhân dân, đất nước và cộng đồng nhân loại, vì sự tiến bộ xã hội, người làm báo chân chính bằng tri thức, năng lực nghề nghiệp thường cố gắng nắm bắt và phản ánh đúng bản chất sự kiện. Khi đó sự kiện được chiếm lĩnh đúng tính cách một sự kin báo chí, và dư luận công chúng được tiếp nhận thông tin như một sự tiếp nhận một chân lý khách quan của đời sống.
Trong văn học hiện đại nhiều nước đã hình thành và phát triển hình thái văn học sự kiện, trong đó chủ yếu là mảng văn xuôi tư liệu. Đó là kiểu văn xuôi tự sự, trần thuật phi hư cấu, tuyệt đối tôn trọng tính khách quan, xác thực của những số liệu, sự kiện. Nhà văn viết văn xuôi tư liệu đóng góp cho xã hội bằng nỗ lực tìm kiếm thông tin, số lỉệu, hệ thống hoá và tổ chức lại tư liệu để tác phẩm có kết cấu hợp lý, hấp dẫn và sống động như một cơ thể nghệ thuật hoàn chỉnh. Hoạt động sáng tạo của nhà văn trong trường hợp này rất gần với hoạt động báo chí.
6. Tản văn
Theo quan niệm của người Trung Quốc cận đại, tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tuỳ bút, tiểu phẩm, tiểu luận. Các tiểu thể loại với những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn... cũng được xếp vào phạm trù tản văn. Như vậy, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đắc dụng khi bản thân tác giả khồng ý thức được hoặc không cần quan tâm tới việc tác phẩm của mình được viết theo thể loại nào: tạp văn hay tiểu phẩm, tiểu luận hay phiếm luận, phiếm đàm. Loại trừ các thể văn vần, thơ ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, khái niệm tản văn đứng ra như một khái niệm dung hoà các đường biên thể loại.
Đặc điểm phổ quát của tản văn là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên của quan điểm, cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết. Vị thế của chủ thể tản văn nhìn chung là vị thế cao đàm, ung dung tự tại, vượt lên thói thường, đưa đường chỉ lối cho độc giả khám phá thời cuộc, trải nghiệm cuộc sống, hoặc cảm nhận những khía cạnh mới mẻ, ý vị của đời sống nhân sinh.
Tản văn là thể văn trữ tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí. Nếu nói về các cây bút tản văn, phải nghĩ ngay tới các nhà văn nổi tiếng như Lỗ Tấn (tạp văn) Tản Đà (tuỳ bút), Ngô Tất Tố (tiểu phẩm), Nguyễn Tuân (tuỳ bút), Vũ Bằng (tuỳ bút, thời đàm), Hoàng Phủ Ngọc Tường (bút kỷ), Băng Sơn (đoản văn) v.v. Các chuyên mục tản văn hiện nay xuất hiện khá đều trên nhiều tờ báo Việt Nam. Cách đặt tên chuyên mục có thể dựa thẳng vào thể loại, cũng có thể dựa theo đề tài, gắn liền với các hình ảnh ẩn dụ hoặc lối nói chào mời đối thoại, như Hà Nội tạp văn, Phiếm đàm, Sau luỹ tre làng, Nghĩ mà coi, Mỗi ngày một chuyện, Nói hay đừng v.v.
Là một thể tản văn giàu tính luận chiến về một đề tài chính trị, xã hội nào đó có ý nghĩa thời sự. Tạp văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật sinh động. Trong số các thể tản văn, tạp văn là thể giàu tính báo chí hơn cả. Nếu như “tâm thế tản văn” là tâm thế nhàn tản, ngâm ngợi, thích ứng với lối cảm nhận điềm tĩnh, suy tư thì thể tạp văn vượt lên như một thể loại xung kích, phản ứng nhanh nhậy, kịp thời trước những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội... Tạp văn hoàn toàn xa lạ với không gian điền viên và các nhu cầu thư giãn, giải trí. Ở Trung Quốc, tạp văn ra đời trong không khí nỏng bỏng của phong trào cách mạng Ngũ Tứ (1917- 1924). Không khí cách mạng đó phần nào ấn đnh tính chiến đấu của tạp văn. Lỗ Tấn ngay trong những năm cách mạng đó đã mài sắc ngòi bút tạp văn, đưa thể văn này đạt tới tầm cao nghệ thuật. Ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, các nhà văn kiêm nhà báo như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng v.v. đều tận dụng hiệu năng công luận ca tạp văn, tạo dựng được môi trường độc giả riêng cho thể loại này được nuôi dưỡng và phát triển.

8. Thể loại (genre)
Là tập hợp những đặc điểm rút ra từ hàng loạt các tác phẩm ngôn từ, nghệ thuật, được khái quát và biểu hiện bằng một thuật ngữ có tính ổn định tương đối trong một hệ thống các phương tiện phản ánh đời sống và sáng tạo tác phẩm.
Lý thuyết thể loại là lý thuyết phát triển trên cơ sở quan sát và phát hiện những yếu tố chung tiềm ẩn trong nhiều tác phẩm, để tiến tới loại hình hoá chúng thành những nhóm tác phẩm có sự gần gũi, thống nhất về đ tài, kết cấu, thủ pháp mô tả, phản ánh, lịch trình phát sinh cùng sự vận động biến đổi của chúng trong lịch sử. S phân chia thể loại vì vậy không phải là sự phân chia cơ gii, mà chỉ mang ý nghĩa tương đối về phương diện lý thuyết. Trong thực tiễn báo chí, các thể loại báo chí luôn có sự ảnh hưởng, giao thoa, tiếp nhận và loại bỏ những ưu thế, đặc điểm của nhau. Các thể loại báo chí xuất bản bằng giấy in đã tạo tiền đề cơ bản cho các thể loại truyền thanh và truyền hình xuất hiện. Ngược lại, sau khi truyền thanh và truyền hình ra đời và phát triển, các thể báo in cũng tiếp nhận những ảnh hưởng của tư duy truyền thanh, đặc biệt là kiểu “tư duy truyền hình”, như: thủ pháp cắt ghép, thủ pháp miêu tả có tính đng hiện, tiếng vọng - độc thoại nội tâm của nhân vật v.v. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, hơn hẳn mi thể loại của văn học nghệ thuật, các thể loại báo chí không chấp nhận những quan niệm khuôn thước cố định, nhất thành bất biến trong lý luận. Các quan niệm về thể loại chỉ có chức năng của người trợ thủ, gợi ý cho nhà báo tiếp cận hiện thực, khai thác, xử lý và diễn đạt thông tin nhanh hơn. Nhiều nhà báo nghiệp dư đến với hoạt động báo chí một cách hn nhiên, hoàn toàn không có ý thức gì v thể loại nhưng vẫn rất thành công. Thực ra, bằng việc đọc sách báo hàng ngày, họ đã tiếp nhận kinh nghiệm thể loại một cách vô tư, bất tự giác, đồng thời bằng trí thông minh và năng khiếu bẩm sinh, họ nhanh chóng đặt bút mình tuân thủ tư duy thể loại. Bởi vì xét cho cùng, thể loại chính là trí nhớ, là ký ức chung của loài người về văn hoá.
9. Tiểu phẩm (feuilleton, newspaper satire)
Do sử dụng thuật ngữ bằng từ Hán Việt, “tiểu phẩm” được hiểu một cách thông dụng như một tác phẩm ngắn gọn, nhỏ lẻ, có dung lượng khiêm tốn, chỉ lưu ý tới “lượng” chứ không tới “chất” của tác phẩm. Trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là báo in, tiểu phẩm là thể loại có vị thế tương đối cổ điển. Thời kỳ đầu xuất hin, tiu phẩm còn nằm lẫn trong các trang phụ trương quảng cáo gắn kèm với các trang chính của tờ báo. Nổi tiếng nhất trong số các trang phụ trương tiểu phẩm và quảng cáo này là phụ trương của nhà văn Lessing cho tờ báo Đức Zeitung, xuất bản từ năm 1751 đến năm 1755. có nội dung châm biếm, hài hước về những chuyện sinh hoạt đời sống, có chức năng giải trí là ch yếu, tiểu phẩm được phép phát triển nằm ngoài sự quan tâm của bộ máy kiểm duyệt chính thống. Sự nhận biết và “khai trương” thể loại chính thức diễn ra vào năm 1800, khi chủ bút tờ báo Pháp Journal des DébatsJ. Geoffroy quyết định di chuyển tiểu phẩm cùng mục quảng cáo từ các trang phụ trương vào nửa dưới trang nhất của mỗi số báo. Những số báo đầu tiên, ông in các bài phê bình sân khấu của mình. Nửa dưới trang báo được ngăn với nửa trên bằng một vạch kẻ ngang, mực đậm, với mục đích lưu ý độc giả rằng đây là phần được miễn kiểm duyệt, về mặt đồ hoạ kỹ thụật, bài tiểu phẩm thường được in bằng kiểu chữ nghiêng và được đóng khung. Được sáp nhập vào trang báo chính thức, thể tiểu phẩm bắt đầu một lịch sử phát triển của nó. Nhiều ký giả và nhà văn nổi tiếng như Th. Gautier, Ch.A. Sainte-Beuve (Pháp), I.S. Puskin (Nga), H. Heine (Đức), K. Capek (Séc), đều tham gia viết tiểu phẩm. Một số nước còn gọi tiểu phẩm bằng cái tên nôm na là “bài dưới vạch” (podcara - Séc), tức là dưới vạch cấm, hay khu vực “phi kiểm duyệt”. Các bài tiểu phẩm càng ngày càng hấp dẫn độc giả và ảnh hưởng sâu rộng tới đông đảo công chúng. Đề tài của tiểu phẩm mở rộng dần trên các mặt của đời sống văn hoá - xã hội và nghệ thuật. Vì bị giới hạn về dung lượng chữ, tiểu phẩm phát triển theo xu hướng dồn nén thẩm mỹ và bắt đầu một lịch trình giao thoa loại hình. Bằng lối viết nhẹ nhàng, hóm hỉnh, phân tích, bình luận một cạch hài hước, các cây bút tiểu phẩm đã đưa thể loại này xích lại gần văn học, tới mức có nhà nghiên cứu (J. Táborská) cho rằng đây chỉ là một thể loại văn học xụất hiện và phát triển nương nhờ trên “đất báo”.
Tuy vậy, thực tiễn và sự khái quát lý thuyết vể tiểu phẩm không phải có sự thống nhất ở tất cả mọi nước. Hiện tại, Đức, kháị niệm “feuilleton” được dùng để chỉ tất cả các bài báo ngắn in trên các trang phụ trương, viết về văn hóa, xã hội, giới thiệu và phê binh vặn học nghệ thuật, kể cả những bài bình luận chính tộ và không tính tới chất hài hước, châm biếm ở đó có hay không.
Ở Việt Nam, tiếp nhận những ảnh hưởng tinh hoa của hai nền vân hoá lớn là Pháp và Trung Quốc, các nhà báo Nguyễn Ái Quốc Ngô Tất Tố thực sự là những cây bút tiểu phẩm tiên phong của báo chí Viột Nam hiện đại. Di sản tiểu phẩm của hai tác giả ngay từ đầu đã hội đủ không chỉ những thuộc tính phổ quát của thể loại feuilleton phương Tây mà còn có sự bổ sung các đặc điểm mới: tính chiến đấu và sự can dự sâu rộng vào địa hạt chính trị. Tiểu phẩm của báo chí đầu thế kỷ này ở Việt Nam thường xuất hiện trong các chuyên mục như “Nói mà chơi”, “Thời đàm”, “Mua vui cũng được một vài trống canh”, “Nói hay đừng” v.v.

Một số thuật ngữ Văn học (1)


1. Ảnh hưởng  văn học

12. Ký

2.  Bút danh
13. Ngôn ngữ nhân vật

3. Bút ký
14. Nội dung và hình thức

4. Bút pháp
15. Phong cách

5. Ca dao
16. Tản văn

6.  Cấu trúc của tác phẩm

17. Tạp văn

7. Cấu tứ
18. Thể loại văn học

8. Châm ngôn

19. Thể loại văn học sử

9. Châm biếm

20. Văn  chính luận

10. Hài hước

21. Văn chương

11. Bố cục
22. Văn tiểu phẩm
                 

1. Ảnh hưởng văn học  (tiếng Pháp: influence)
Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải là đã ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Sự vay mượn cốt truyện, sử dụng tư liệu, ngôn ngữ cũng chưa phải là ảnh hưởng. Ảnh hưởng văn học chỉ xảy ra trong điều kiện có tiếp nhận và sáng tạo và chủ yếu thể hiện trên phương diện sáng tạo, làm ra tác phẩm mới, là cái tác động đem lại sự phong phú hay biến đổi về quan điểm thẩm mĩ hay cách tư duy nghệ thuật mà truyền thống văn học dân tộc của nhà văn không có, hoặc sự phát triển tự nhiên của tài năng nhà văn không dẫn đến. Chẳng hạn, ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp đã góp phần tạo thành những sáng tác thơ mới 1932 - 1945 Việt Nam.
Ảnh hưởng văn học là một quá trình, có thể tác động tới các khâu khác nhau trong quá trình ảnh hưởng như gợi ý, thúc đẩy, làm cho giống, tiêu hoá biến dạng, thay đổi biểu hiện nghệ thuật... ảnh hưởng văn học diễn ra toàn diện, có ảnh hưởng văn học giới hạn trong từng khâu. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có ảnh hưởng tới việc xuất hiện ý đồ tự sự của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nhưng không hoàn toàn ảnh hưởng tới quan niệm con người của Nguyễn Du.
Ảnh hưởng văn học có thể xảy ra trên những quy mô, trong những phạm vi khác nhau. Một giai đoạn hơặc một thời đại văn học có thể ảnh hưởng tới sáng tác ca nhà văn thuộc nhiều giai đoạn, nhiu thời đại khác. Chẳng hạn văn học cổ đại Hi Lạp - La Mã từng ảnh hưởng sâu sắc tới văn học Phục hưng và hàng trăm năm sau lại có ảnh hưởng sâu sắc tới văn học cổ điển ở châu Âu. Sáng tác của một nhà văn thiên tài cũng có thể ảnh hưởng tới sáng tác ca nhiều thế hệ nhà văn nối tiếp nhau. Nguyn Du trong văn học Việt Nam, Puskin trong văn học Nga, Gớt trong văn học Đức là những ví dụ tiêu biểu. Các trào lưu, khuynh hướng, trường phái văn học cũng có thể ảnh hưởng qua lại vi nhau.
Có loại ảnh hưởng văn học thuần tuý mang tính chất cá nhân: ảnh hưởng qua lại giữa nhà văn này với nhà văn khác. Có loại ảnh hưởng văn học giới hạn trong nội bộ văn học của một dân tộc. Có loại ảnh hưởng văn học mở rộng trong phạm vi một vùng, một khu vực văn học của nhiều dân tộc quan hệ gần gũi với nhau. Cuối cùng là những ảnh hưởng văn học mang quy mô toàn thế giới. Giao lưu văn hoá và sự tương đồng lịch sử là những nhân tố quan trọng bậc nhất để tạo ra những ảnh hưởng qua lại giũa các khu vực, các nền văn học của nhiều dân tộc khác nhau trong tiến trình chung của văn học nhân loại.
2. Bút danh
Tên tác giả được dùng để công bố các tác phẩm thay thế tên thật. Chẳng hạn, Chế Lan Viên là bút danh của Phan Ngọc Hoan, Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Tri, Tố Hữu là bút danh của Nguyễn Kim Thành... Sử dụng bút danh là hiện tượng phổ biến trong văn học toàn thế giới thuộc mọi thời đại, đặc biệt là ở phương Đông.
Có rất nhiều kiểu đặt bút danh. Có bút danh chỉ là những chữ cái, có bút danh được đặt theo chữ lót và tên thật của nhà văn, như Huy Thông (Phạm Huy Thông), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), Huy Cận (Cù Huy Cận), Tế Hanh (Trần Tế Hanh),... Lại có người lấy chữ lót và họ thật làm bút danh như Nguyễn Bính (Nguyễn Bính Thuyết). Bút danh Thế Lữ do chữ lót và tên thật của nhà thơ nói lái lại vi nhau mà thành (Nguyễn Thứ Lễ). Nhiều nhà văn dùng các bút danh mang ý nghĩa tượng trưng nhằm làm cho người đọc chú ý đến một đặc điểm tính cách nào đó hoặc ý đồ sáng tác của mình, chẳng hạn Tú Mỡ, Thợ Rèn... lại có những nhà văn vừa kí bút danh vừa kí tên thật.
3. Bút kí
Thể loại thuộc loại hình thường có quy mô tương ứng với truyện ngắn*. Bút kí khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút kí không sử dụng hư cấu* vào việc phản ánh hiện thực.
Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm khám phá ra những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mi mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Nói cách khác, giá trị hàng đầu của bút kí là giá trị nhận thức.
Bút kí có thể thuộc về văn học*, cũng có thể thuộc về báo chí tuỳ theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng.
Bút kí có thể thiên về khái quát các hiện tượng đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại trên, tác giả chú ý nhiều đến việc điển hình hoá những tính cách* bằng nhiều biện pháp nghệ thuật như xây dựng cốt truyện* (tuy không chặt chẽ như trong truyện ngắn, nhất là không có xung đột duy nhất), sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình... thì thường bút kí chính luận thường nổi lên những hiện tượng của đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt được cái thực chất bên trong ca chúng để mô tả nó một cách chính xác, sinh động, có kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của nhân vật, phân tích, đánh giá cuộc sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị luận, châm biếm, hài hước thường được sử dụng nhiều hơn.
4. Bút pháp (tiếng Pháp: écriture)
Ở phương Đông bút pháp vốn là thuật ngữ của thư pháp – ngh thuật viết chữ Nho, chỉ cách cầm bút lông, cách đưa đẩy nét bút để tạo dáng nét chữ đẹp. Chẳng hạn: “Khen rằng bút pháp đã tinh” (Truyện Kiều).
Trong văn học, bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Ở đây bút pháp cũng tức là cách viết, lối viết. Người ta thường nói: bút pháp trào lộng, bút pháp trữ tình, bút pháp cổ kính... là do sử dụng các biện pháp trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách diễn đạt cổ mà nên. Ví dụ: “Bút pháp sở trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong truyện và kí là châm biếm” (Phạm Huy Thông); Trong thơ trữ tình, Bác thường dùng bút pháp hiện thực và bút pháp tượng trưng (Nguyễn Đăng Mạnh).
Khái niệm bút pháp do trực tiếp gấn với cách viết, lối viết, nên có phần tương đng với khái niệm phong cách, văn phong. Bởi chữ phong cách trong tiếng Hi Lạp, La-tinh lúc đầu cũng có nghĩa là “cây bút”, sau mở rộng thành “chữ viết”, “cách viết”. Tuy nhiên nội dung khái niệm phong cách nay được hiểu rộng hơn, có tính h thống hơn, còn bút pháp thường chỉ yếu tố của phong cách.
5. Ca dao (tiếng Pháp: chanson populaire)
Còn gọi là phong dao.
Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu.
Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, ca dao đã dần dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ dân gian truyền thống. Ví dụ câu ca dao:
Làm trai quyết chí tu thân
 Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo
Hai câu này vốn được rút ra từ bài dân ca hát cách với những tiếng đệm, tiếng láy tiếng đưa hơi như sau:
Làm trai quyết chí (mà) tu (ý) thân. Công danh (là công danh) chớ vội (chứ đã) nợ nần (mà nợ nần) chớ lo (ý y y ý y)...
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) trên sách báo nước ta đã xuất hiện danh từ ca dao mới để phân biệt ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền).
Ca dao mới khác với ca dao cổ về khá nhiều phương diện (về thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương thức và phương tiện lưu truyền, phổ biến...). Ngoài phương thức sáng tác và lưu truyền bằng miệng của nhân dân, ca dao mới còn được sáng tác và phổ biến bng văn tự của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư. Những tập ca dao thành văn được xuất bản trong mấy chục năm qua (như ca dao kháng chiến, ca dao chống Mĩ, ca dao chống hạn,...) thiên về tuyên truyền chính trị là một hiện tượng mới chưa từng có trong lịch sử ca dao trước Cách mạng tháng Tám (1945).
Dựa vào chức năng kết hợp với hệ thống đề tài, có thể phân ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) thành những loại ca dao khác nhau, như ca dao ru con, ca dao tình yêu, ca dao về tình cảm gia đình, ca dao than thân, ca dao trào phúng...
6. Cấu trúc của tác phm (tiếng Nga: struktura proizvedenia)
T chức nội tại, mối quan hệ qua lại của các yếu tố của tác phẩm mà sự biến đổi một yếu tố nào trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi của các yếu tố khác. Từ xưa người ta đã biết đến cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng chỉ hiểu ở khía cạnh hòa hợp hài hòa, đối xứng. Nghiên cứu văn học từ những năm 20 thế kỉ XX hiểu cấu trúc của tác phẩm văn học là kết cấu*, cấu tạo và mối quan h qua lại của nhân vật với các hình tượng khác, quan hệ giữa các lớp tư tưởng chủ đề và lớp tạo hình, tổ chức lời văn.
Ngày nay, cấu trúc của tác phẩm văn học là một khái niệm được sử dụng phổ biến và được hiểu như là mối quan hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ đặc thù, bởi tác phẩm là một thông báo bằng một ngôn ngữ đặc biệt. Khác với ngôn ngữ tự nhiên, các yếu tố cấu trúc của tác phẩm đều có ý nghĩa riêng. Ví dụ một câu tục ngữ như: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, thì cả mựcđen, đènsáng, trong cấu trúc của câu tục ngữ đều hàm chứa những nội dung mà những chữ ấy thông thường tách riêng ra không thể có được. Do đó muốn hiểu tác phẩm văn học, ta phải tìm hiểu cấu trúc của nó, đặt các yếu tố vào trong cấu trúc của nó.
Tác phẩm văn học là một cấu trúc phức tạp. Hiện vẫn chưa có một quan niệm thoả mãn được mọi người. Tuy vậy nhìn chung, khái niệm cấu trúc của tác phẩm có thể hình dung đại để như sau: xét từ lí luận chỉnh thể, cấu trúc của tác phẩm bao gồm các yếu tố được đặt trong trật tự (cấp độ) phụ thuộc vào nhau như sau đây: tư tưởng - chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống hình tượng (có thể bao gồm cả cốt truyện), kết cấu, ngôn từ. Cũng có ý kiến xem nội dung tư tưởng - chủ đề là yếu tố ưu trội, quy định cả hệ thống tác phẩm, còn cấu trúc đích thực của tác phẩm chỉ bao gồm hai yếu tố: ngôn từ, cốt truyện, được tổ chức với nhau bằng kết cấu. Yếu tố kết cấu là đặc trưng cho bản chất nghệ thuật nói chung của văn học, nó tạo ra nhịp điệu chung cho tác phẩm và cho từng bộ phận. Yếu tố cốt truyện đặc trưng cho văn học với tư cách là nghệ thuật thời gian, gắn với nó xuất hiện con người không gian, thời gian, xung đột, biến cố. Yếu tố ngôn ngữ tiêu biểu cho đặc trưng nghệ thuật ngôn từ. Sự thống nhất các yếu tố (cấp độ) này tạo ra thế giới nghệ thuật ca tác phẩm.
Trên cấp độ chủ đ, cốt truyện , người ta chỉ ra các câu, các từ ngữ chìa khoá có ý nghĩa đặc biệt như là các chủ đề nhỏ, các môtip*. Cốt truyện được hiểu như là tổng thể của các môtíp và tiếp theo, chỉ ra các cốt truyện “di chuyển”, các chủ đề “vĩnh cửu” (thiên nhiên, tình yêu, cái chết,...). Trên cấp độ hình tượng, người ta chia ra hình tượng ngôn từ (các phép chuyển nghĩa), các hình tượng nhân vật, phong cành, chân dung, nội tâm (chiếm một phần văn bản),các hình tượng về thế giới, không gian, thời gian (chiếm toàn văn bản). Trên cấp độ thời gian, người ta chia các yếu tố dòng thơ, khổ thơ, văn bản thơ. Trên cấp độ ngôn ngữ, người ta phân biệt ngữ âm, hình thái, cú pháp, yếu tố trên câu, toàn văn bản, liên văn bản. Toàn bộ các yếu tố vừa kể trên các cấp độ đều tham gia vào cấu trúc của tác phẩm nhằm tạo ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể và thế giới.
Tính lặp lại và vững bền của các yếu tố thuộc các cấp độ cấu trúc tối cao, cho phép nghĩ đến các mẫu gốc* của tư duy nghệ thuật. Tính ổn định của các cấp độ cấu trúc siêu văn bản cho phép nói đến cấu trúc của tình huống văn học sử của thời đại. Một trong những đặc điểm quan trọng của tính ổn định của cấu trúc là kí ức của thể loại, tức là mô hình của thể loại văn học.
7. Câu tứ (tiếng Nga: zamysel)
Xét trong quá trình sáng tác, là hoạt động tư duy để sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật. Trong thiên Thần tứ, nhà lí luận văn học Trung Quốc Lưu Hiệp nói: “Cái kì diệu của cấu tứ là làm cho tinh thần nhà văn gặp gỡ với sự vật khách quan”, “hình và ý gặp nhau”. Các nhà văn thường nói “tình tứ”, “cấu tứ” tác phẩm là như vậy.
Xét như một thành quả sáng tạo, cấu tứ là sự cắt nghĩa, lí giải và khái quát hiện tượng đời sống bằng một hình tượng tổng quát có sức chi phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm. Chẳng hạn trong bài Lệ, Xuân Diệu xem Trái đất ba phần tư nước mắt” là một giọt lệ lớn đi giữa không trung, hoặc trong bài Hồ Chí Minh (1946) Tố Hữu hình dung Hồ Chủ tịch qua hình ảnh “Người lính già” đi tiên phong quyết chiến, hi sinh.
Có thể xem cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Cấu tứ là mô hình nghệ thuật của tác phẩm, là quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người ca nó.
Cấu tứ không phải chỉ có trong thơ trữ tình hoặc trong một tác phẩm nào đó mà có cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật loại khác như tiểu thuyết*, kịch, kí, tản văn, trong sáng tác của một tác giả hoặc một thể loại văn học. Chẳng hạn “phức điệu” (polyphonie) là loại cấu tứ nghệ thuật của Đốt-xtôi-ép-xki để phản ánh cái phẩm chất chưa hoàn thành của đời sống. Miêu tả con người như đ vật (chân dung thằng ăn cắp, bà phán Tuyên,...) là một nét đáng chứ ý trong cấu tứ nghệ thuật của truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan.
8. Châm biếm (tiếng Pháp: satire)
Một dạng của văn học trào phúng*, dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và những hiện tượng này hay hiện tượng khác trong xã hội. Châm biếm gắn liền với tình cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ phải, tình yêu con người.
Châm biếm khác với umua, hài hước mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật.
Về phương diện xã hội, phần lớn những tác phẩm châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân, của tư tưởng tiến b trong lịch sử. Các nhà văn, nhà thơ trào phúng thường có tài châm biếm và đã viết những tác phẩm có giá trị đả kích bọn thống trị tàn bạo, hà khắc, bọn xâm lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu vinh,...
9. Châm ngôn (tiếng Anh: gonomic, maxim)
Lời nói để răn đời, ngăn ngừa sai trái, có tác dụng hướng dẫn về tư tưởng đạo đức, cách sống. Chẳng hạn: Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân (Điều mình không muốn thì chớ làm cho người khác). Mở rộng ra, châm ngôn cũng như cách ngôn là li đúc kết cách sống. Với hình thức ngắn gọn, dễ nhớ, (câu) châm ngôn thường được rút ra từ tục ngữ hoặc từ lời nói của các lãnh tụ, các nhà tư tưởng, các nhà vãn hoá lớn. Chẳng hạn nhiều câu nói của Khổng Tử, Hồ Chí Minh, Lê-nin đã được coi là châm ngôn.
Châm ngôn còn là một thể văn trong văn học cổ, gọi là bài châm hay châm từ.
10. Hài hước (tiếng Anh: humour); còn gọi là umua.
Một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây cười, mua vui. Trên cơ sở vạch ra sự mất hài hoà, cân đối giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lí tưởng và thực tế, như dốt mà hay nói chữ, sợ vợ mà lên mặt làm chồng,...
Hài hước khác cái nghịch dị* ở tính chất kín đáo, thâm trầm, không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý. Hài hước là sản phẩm của trí tuệ con người, là dấu hiệu của tài năng và là biểu hiện của tinh thần lạc quan.
Hài hước khéo léo, nhẹ nhàng vạch ra các mâu thuẫn, tạo ra cái cười bất ngờ, giúp người ta nhận ra sự trớ trêu của tình huống, mỉm cười mà phân biệt đúng sai. Ví dụ: hài hước ở một số bài thơ của Hồ Chí Minh trong tập Nhật kí trong tù:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt, pha trà tự ý ta
Muốn để pha trà đừng rửa mặt
Muốn đem rửa mặt chớ pha trà.
11. Bố cục
Là một phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết Hcấu còn bao gồm: tô chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện,... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở  thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghộ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư  tưởng các tác phẩm: triển khai, trình bày hấp đẫn cốt truyện; cấu Itrúc hợp lí hệ thống tính cách ; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ.
Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn, vì mỗi tác phẩm là một “sinh mênh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.