(Nguyễn Bùi Khiêm ) lang thang trên mạng, thấy cái
này hay hay, copy về đây, cũng chẳng biết đích thực là của tác giả nào, nhưng
biết chắc chắn là những cứ liệu mà các tiên sinh đã dùng để chắp bút thật
chuẩn, up lên đây tìm một sự đồng cảm tri thức về một thời lãng mạn trước năm
1945 trong lịch sử báo chí Việt Nam
Phong Hóa và Ngày Nay là hai tuần báo xuất hiện
ở Hà Nội từ năm 1932 tới năm l940, dưới chế độ Bảo hộ, thuộc Pháp. Thoạt đầu tuần báo Phong Hóa do ông
Phạm Hữu Ninh làm chủ, đã ra 13 số báo không có độc giả, sắp sửa phải đình bản (Khái Hưng và Nhất Linh có viết và vẽ cho tờ
báo này dưới tẻn Trần Khánh Giư và Đông Sơn). Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã mua lại và làm chủ bút nhưng vẫn giữ trên mặt
báo tên ông Phạm Hữu Ninh, Gérant và ông Nguyễn Xuân Mai, Directeur Politique, ông cùng một nhóm anh em bạn hữu gồm có Khái Hưng, Trần Khánh Giư, Tú Mỡ, Hồ Trọng Hiểu, Tứ Ly, Nguyễn Tường Long, Thạch
Lam, Nguyễn Tường Lân, tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới.
Bắt đầu từ ngày 22/09/1932, Phong Hóa số 14 ra tám trang khổ lớn, trở thành tờ báo trào phúng
đâu tiên của nước ta. Mục đích của báo được quảng bá lần đầu trong Phong Hóa số 13 là:
“Bàn một cách vui vẻ các
vấn đề cần thiết: Xã hội, chinh trị, kinh tế, nói rõ về hiện tình
trong nước...”.
Đó chính là sự thể hiện
tinh thần dân chủ và bình đẳng trong tư tưởng, văn
chương, báo chí. Sau
này tờ báo thực sự đã nổi bật ở tính thời sự và giọng châm biếm.
Năm 1933, Phong Hóa có thêm Thế Lữ - Nguyễn Đình Lễ, một nhà thơ, nhà
văn mới.
Tới giữa năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn được thành lập với
sáu thành viên: Nhất Linh, Tứ Ly (Hoàng Đạo), Thạch Lam, Khái Hưng, Tú
Mỡ và Thế Lữ. Sau này Tự Lực Văn Đoàn có thêm thành viên thử bầy là thi sĩ Xuân Diệu.
Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn với phong cách viết khác nhau, nhưng đều sử dụng một loại văn mới mẻ, giản dị, nhẹ nhàng, dễ đọc, trong những tác phẩm có nội dung mới, súc tích, lý thú, hợp khẩu vị dân chúng, đã nhanh chóng thu hút độc giả. Văn Đoàn đã thực sự cải tiến cách viết chữ Quốc ngữ, giữa lúc lối văn
biền ngẫu sáo rỗng vẫn còn thống lĩnh văn chương
Việt Nam, với quá nhiều từ Hán - Việt, và chứng tỏ rằng chữ
viết mới có đủ khả năng diễn tả tất cả mọi tình huống của
cuộc đời. Các thàiih viên Tự Lực Văn Đoàn
mỗi người đều tự tạo ra một sự nghiệp văn chương lừng lẫy trên các báo Phong
Hóa và Ngày Nay, họ được ca tụng là những văn hào của dân Việt.
Văn hào Nhất Linh, người cầm đầu, hoàn
thành một kho tàng văn học đồ sộ, sáng chói, đồng thời điều khiển văn đoàn rất
thành công. Là một thủ lĩnh văn chương có biệt tài, Nhất Linh nhận xét, sử dụng tài năng, sở trường của các tác giả rất bén nhậy, sắc sảo. Ta có thể đọc được ít bài trên Phong Hóa và Ngày Nay như:
“Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới” phê bình Thế Lữ vào năm 1933, khi nhà thơ chưa là thành viên của báo, và nhiều bài viết của Thế Lữ còn ở
trong dạng bản thảo[1].
Hay bài công bố giải khuyến khích
về thi ca Tự Lực Văn Đoàn năm 1939: nữ sĩ Anh Thơ, và thi
sĩ Tế Hanh[2].
Nhất Linh là người có “cặp mắt xanh”, sớm nhìn ra từng sở trường, sở đoản của anh em, nên tạo điều kiện giúp anh em tiến nhanh,
tiến vững trong nghề nghiệp. Cụ
thể, Tú Mỡ là bạn thân của Nhất Linh, nhưng khi đọc bài phóng sự của Tú Mỡ, Nhất Linh phê bình ngay: “Dở quá, anh nên chuyên về thơ trào phúng, tốt hơn!”[3].
Cho nên Tú Mỡ chi tập tung viết thơ trào phúng, phụ trách chuyên mục
Dòng nước ngược. Và thơ trào phúng của Tú Mỡ được nhiều thế hệ yêu thích (lâu lâu Tú Mỡ cũng có một bài phóng sự…).
Có lần Thế Lữ kể lại (theo trí nhớ): Khi làm việc trong tòa báo, ông phải lọc các bài gửi đăng, có lần
thấy một bài dở đã loại ra. Nhưng khi báo in, lại thấy bài đó xuất hiện! Hỏi
ra, thì chính là Nhất Linh nhặt lại, với lời bình: “Độc giả thích loại này!”. Kiểm lại, đúng thật, bài đó được
nhiều lời khen của người đọc. Riêng với Thế Lữ, việc ông trở thành tác giả viết truyện trinh
thám là do Nhất Linh! Vì Nhất Linh đưa ý kiến: “Bây giờ là lúc báo cần có truyện trinh thám để thay đổi món ăn, anh Thế Lữ viết được
loại này. Anh nên viết đi!” Những phần chính của tờ báo là:
1. Văn học
Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn sáng tác rất nhiều
tiểu thuyết dài, ngắn với cách hành văn cũng như cấu
trúc tác phẩm mới mẻ, phong phú, đã thay đổi hẳn không khí văn học thời bấy giờ.
Trong đó, nổi bật là tình yêu trong trắng, lãng mạn, lý tưởng, và xung đột giữa cái mới và cái cũ. Đặc biệt, những tiểu thuyết
của Nhất Linh, Khái Hưng về “luận đề cũ mới” làm sôi sục xã hội thời đó. Nếu
cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng mở đầu cho sự đổi mới văn chương của nước nhà; Nửa
chừng Xuân cho
người đọc thấy sự xung đột giữa cũ và mới trong xã hội, thì cuốn tiểu thuyết Đoạn
tuyệt của Nhất Linh lên đên đỉnh điểm
của cuộc xung đột. Nhan đề truyện đã được nhắc lại như một tuyên ngôn: “Đoạn tuyệt với cái cũ!”. Đâu đâu trong nước ta
cũng thấy nói tới, tranh luận tới truyện này, ngay cả diễn kịch Đoạn tuyệt nữa!
Bên cạnh đó, Nhất Linh viết tiểu thuyết dài, ngắn, ngay trước khi có
báo Phong Hóa như Nho Phong và Người quay tơ. Những tiểu thuyết luận đề của ông, ngoài Đoạn tuyệt, cuốn Lạnh lùng cũng gây nhiều tranh
cãi và được độc giả ham thích. Sau đó Nhất Linh chuyển sang viết truyện tâm lý
như Bướm trắng... Suốt đời ông, viết văn bao giờ cũng là một niềm vui tri thức, trân
trọng và say mê. Sau này ông viết cuốn Xóm cầu Mới, viết đi viết lại nhiều
lần, mà lần nào cũng long trọng, cũng đắm đuối như “thuở ban đầu”. Với số lượng tác phẩm to lớn, có văn phong trong sáng,
đẹp đẽ, với tri thức chín chắn trong văn học, Nhất Linh là một văn hào lỗi lạc của chúng ta.
Về Khái Hưng, khi về làm việc với Nhất Linh thì vụt sáng lên
như sao buổi sớm. Với vốn sống và kiến thức đông tây uyên thâm, Khái Hưng là người kể chuyện rat có duyên, viết truyện rất thu hút, rất nhân bản,
ần tàng một ý muốn nâng cao dân trí, tìm lý tưởng cho thanh niên. Ông có tài viết nhanh, viết dễ
dàng, gần như số báo nào ông cũng có truyện dài, truyện ngắn, kịch, hay truyện vui,
phê bình văn học ... Khối lượng tác phẩm của ông thật đồ sộ. Đọc Phong Hóa và Ngày Nay, các bạn sẽ được
thấy rất nhiều bài ông viết, chưa từng được in ra sách. Khái Hưng là tác giả
được ngưỡng mộ nhất thời đó, ông đáng mặt văn hào hàng đầu của chúng ta. Ngoài ra, Khái Hưng
còn là tay vẽ ký họa rât khéo, ông có nhiều bức ký họa trên báo Phong Hóa.
Bên cạnh, Thạch Lam là một cây viết kín đáo, kén
người đọc. Ông viết truyện tâm lý tình cảm thâm trầm giản dị, nhẹ nhàng mà thấm thía tuyệt vời. Văn ông đi vào hồn
người. Thạch Lam có một tấm lòng quê thật sâu xa. Nguyễn Tuân gọi đó là: “(Ông)... vừa sống vừa lắng nghe chung quanh cũng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến, cả bên ngoài lẫn bên trong mình” (Tiểu Luận
và Chân Dung văn học - Tuyển Tập Nguyễn Tuân, trang 353, nhà xuất bản
Văn Học, 1982). Thạch Lam là một văn hào hàng đầu của Việt Nam về sự tinh tế.
Trong bài tựa cuốn Gió đầu mùa, Khái Hưng viết: “Thành thực, đó là đức tính không có không được của nhà văn, ở Thạch
Lam, sự thành thực lại trở nên sự can đảm. Đọc nhiều đoạn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vi sự
thành thực (nhất là trong truyện Ngày Mới)[4]...”.
Ta hãy đọc quan niệm của chính Thạch Lam về văn chương trong Lời nói đầu của tập truyện ngắn Gió đầu mùa: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao
và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối vừa tàn
ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú”.
Nhiều bài trong Hà Nội 36 phố
phường của ông là những áng văn hay về
Hà Nội được nhiều thế hệ sau này nhắc đên và chắc sẽ được tiếp tục nhắc đến khi nhớ về Hà Nội một thời thanh lịch. Thạch Lam viết nhiều thể loại kể cả phê bình văn học, mỹ thuật...
Giữ chức chủ bút báo Ngày Nay khá lâu, Thạch Lam quán xuyến công việc
một cách tốt đẹp, phát triển được đội ngũ cộng tác viên hùng hậu, nhất là số
lượng phát hành ngày một tăng. Đó cũng là cái tài của chủ bút Thạch Lam.
Riêng Thế Lữ, ngoài thơ ca, là một cây viết rất
cuốn hút, văn phong khác lạ, lý thú, mạnh mẽ, săc nét... với tinh thần rõ ràng
khúc triết và tài dàn xếp câu chuyện thật ly kỳ. Thế Lữ nổi tiếng nhất về những
truyện đường rừng như Vàng và Máu, Một đêm trăn,... truyện kinh dị như Bên đường thiên lôi, Cái đầu lâu... Ông còn nhiều loạt bài phóng sự vui như Lê Ta làm báo, Lê
Ta xuống Hải Phòng... nhiều truyện trinh thám, nhiều kịch bản, cùng nhiêu bài phê bình thơ, kịch...
chưa ra sách. Thỉnh thoảng Lê Ta cũng có ký họa đăng báo.
Nhìn chung, những sách truyện của
Tự Lực Văn Đoàn đã được nhiều thế hệ người
đọc yêu thích, góp phân nâng cao dân trí, giúp cho câu văn tiếng Việt rõ ràng,
mềm mại, giúp cho nhiều thế hệ người đọc yêu quê
hương, đất nước...
Hơn nửa thế kỷ qua đi, nhiều người đã bàn về
những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Dù thích hay không thích, các nhà nghiên
cứu văn học đều thừa nhận có một dòng văn chương Tự Lực Văn
Đoàn. Đây là văn đoàn đầu tiên của nước nhà và cũng là văn đoàn góp phần to lớn làm nên cuộc cách
mạng văn học trong thế kỷ XX.
2. Báo chí
Ngoài tư cách nhà văn, các thành viên Tự Lực Văn Đoàn còn là những nhà báo. Họ
đi lấy tin, tường thuật, bút chiến. Bằng giọng hài hước họ diễu cợt các thói xấu của giới quan lại, trường giả...
Trong các tiết mục như: Câu chuyện hàng tuần, Điểm thời sự, Đọc sách, Trả
lời bạn đọc, Ngày Nay nói chuyện... mọi thành viên đều viết, và thường được bạn đọc
phục vì tài và nể vì tư cách (ngay cả những bức tranh khôi hài Lý Toét
nhiều khi cũng được tạo thành do sự góp ý của nhiều thành viên và họa sĩ. Những bức tranh này thường không ký tên
tác giả).
Người viết những bài lý luận thời sự về xã hội,
chính trị, kinh tế... điều khiển linh hồn tờ báo là Tử Ly Hoàng Đạo. Qua các
loạt bài như: Từ nhỏ đến lớn; về người: Từ cao đến thấp; về việc: Bàn Ngang, nói ngược mà hiểu ra xuôi, cũng như loạt
bài Hậu Tây Du ký, Đi thăm Khổng Tử... Hoàng Đạo không đả phá thẳng vào Mẫu quốc và chế độ thuộc địa
mà bắt đầu tấn công vào các quan lại người Việt bằng cách viết văn châm biếm
và chế diễu. Thêm vào đó, trên cả hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay, ông đã viết ra
một khối lượng tài liệu rất lớn về pháp luật, về quyền lợi cũng như nghĩa vụ người công dân,
như: Trước Vành Móng Ngựa, Công Dân Giáo Dục… giúp
người dân hiểu luật pháp, không sợ bị đe dọa, bị bắt nạt. Cũng
như loạt bài Bùn lầy nước đọng, viết về thực tế khốn cùng của nông dân Việt Nam, chứng tỏ Tự Lực Văn Đoàn rất quan tâm đến xã hội,
đến việc “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như tinh thần của nhà ái quốc Phan Chu Trinh đã bàn đến hồi đầu thế
kỷ XX.
Sau này, rõ ràng nhất là Thuộc địa Ký ước, đã phân tích chế độ thuộc địa và những biện pháp cai trị của thực dân Pháp áp dụng ở
nước ta.
Những phóng sự về mặt trái của xã hội, do Trọng
Lang, cây bút phóng sự sẳc nét lúc bấy giờ, phụ trách.
Khi báo Phong hóa bắt đầu năm 1932, đa số những người trong tòa soạn còn rất trẻ.
Nhất Linh mới có 26 tuổi, Hoàng Đạo 25, Thế Lữ 25, Thạch Lam 22, Tô Ngọc Vân 26, Nguyễn Gia
Trí 24, Lemur Nguyễn
Cát Tựờng 20. Ta thấy trong nội bộ tòa báo, các đoàn viên đối xử với nhau thật thân ái, vui
vẻ hay đùa lơn, kết nên những tình bạn sâu xa, bền vững. Bà Khái Hưng nhận xét vui rằng chồng mình mê các bạn Tự Lực Văn
Đoàn như... mê gái! (theo Ba Tôi, Trần Khánh Triệu). Thế Lữ cũng nói: “Không có báo
Phong Hóa, Ngày Nay, không có bạn bè Tự Lực, không có bạn thơ
văn ngàv ấy ăn ở với nhau như bát nước đầy, sẵn lòng yêu tài, mến đức của nhau... thì không
có Thế Lữ”. Sau
này từ những năm sau 1946 đến khi mất, Thê Lữ và Tú Mỡ vẫn là đôi bạn chí thiết. Và mấy chục năm sau, ngay cả khi
các thành viên đã khuất núi, các bà Nhất Linh, Cát Tường, Gia Trí... vẫn thăm
viếng nhau, các con cháu dù ở xa, dù chưa biết nhau, khi gặp lại vẫn có tình thân như anh em trong nhà.
Chúng ta có thể ghé mắt vào tòa soạn báo Phong Hóa, xem một buổi làm việc
chung, qua ngòi bút của Thế Lữ trong bài Phóng Bút của Lê Ta đăng năm 1935
trên Phong Hóa số 154[5]. Tú Mỡ
sau này cũng kể lại cung cách làm việc chung của nhóm Tự Lực rất vui. Trong
cuốn sách Tiếng Cười có đoạn nói về cuộc họp tối thứ Bẩy trên căn gác ấm cúng số 80 đường Quan Thánh: “Anh em ngồi chầu ngọn lửa ấm
áp, tán chuyện thời sự, nảy ra đề tài viết bài cho số báo mới... Dạo Khái Hưng và Nhất Linh viết chung truyện
dài Đời mưa gió, hai
anh bàn nhau kỳ này nên cho hai nhân vật chính (Tuyết và
Chương) đi đâu, làm việc gì, rồi đột nhiên trái chứng trái khoáy, mỗi
kỳ mỗi anh thay nhau chấp bút. Công việc sáng tác tập thể của các anh là như vậy”[6]…
Còn nữa nhưng không buồn biên…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét