Khiemnguyen
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Tản văn viết bằng Ipad 3 2
Một năm nữa sắp trôi qua. Thời gian là thứ duy nhất không có thể quay trở lại. Đó là quy luật, quy luật mang tính nghiệt ngã nhất của thế giới tự nhiên. Nói là nghiệt ngã vì với mỗi người thêm một tuổi là mất đi một tuổi. Nếu một đời người có thể ví như một chữ A, thì ta đang ở sườn bên kia của chữ đó mất rồi, gạch ngang giữa hai chân như sự níu kéo, sự ràng buộc với những năm tháng đã qua. Lòng tự hỏi, ta đã làm được gì trong một năm, làm được gì với cuộc đời này? Chẳng làm được bao nhiêu cả. Đó ko phải là sự tiếc nuối mà là sự chấp nhận. Ở cuộc đời này, danh phận do giời định đoạt, muốn cũng ko được mà ko muốn cũng ko được. Muốn được thì phải mất, cái gì cũng có giá của nó, nói cách khác là cái gì cũng có lý của nó.
Vừa ngồi Highland Coffee với một ông tiến sĩ về. Đó là một ông Tây học, một vị có bằng PhD từ năm bức tường Beclin sụp đổ. Rất oách, ta nghĩ thế. Hỏi sao anh ko phải là giáo sư, vị đó cười mà nói rằng uy tín khoa học mới là thứ đáng quý, chứ cái danh quý thật nhưng cái danh ko đi với cái thực thì ko có còn hơn. Khổng đã nói danh chính ngôn thuận, ông phải làm được cái gì, là ai thì người ta mới lọt tai, chứ chả là ai cả, nói gì cũng là chém gió mà thôi. Ko biết Khổng nói đúng hay vị tiến sĩ kia nói đúng. Nhưng sống đúng với mình, giữ được khoảng cách với cái Danh khó thật. Phàm đã là con người ai chẳng có chút sĩ diện, sĩ diện ko phải cho mình mà là sự vênh vang với thiên hạ. Vinh là thế và nhục cũng là thế.
Nhớ khoảng này năm ngoái, ngồi nhậu với ông Thái Lọ ở quận 3, hắn bảo đừng đem cái kiểu sĩ phu Bắc Hà vào SG, ở trỏng nhậu là bình đẳng, là anh em, ba cái danh vọng hão huyền chức tước nọ kia đừng có trưng ra ở đấy... Hee, ok. Cơ mà ông ăn cơm Bắc Hà già nửa đời người, vừa vô trỏng mấy hôm đã như là người khác. Sao sống đúng với mình khó thế. Hắn có bao giờ nghĩ hắn chơi với mình đâu thuần tuý là cái thằng mình, há phải hắn chẳng từng chơi với cái ghế mình ngồi hay sao.
Thôi ko viết nữa.
Phong cách là gì? Sáu đặc trưng của phong cách
PHONG CÁCH LÀ GÌ?
|
"Sự tồn tại lâu bền nhất
của các cây viết chính là phong cách"
|
(Nguyễn
Bùi Khiêm) Từ bút stylus từ tiếng Latin là "một dụng cụ
nhọn dùng để viết". Điều đó, theo chú giải thuật ngữ của chúng tôi,
là những gì từ phong cách có nghĩa từ cách đây 2.000 năm. Ngày
nay, định nghĩa về phong cách không phải các công cụ được sử dụng bởi nhà văn,
nhưng đặc điểm của các văn bản chính nó là: “Cách thức mà một cái gì đó được
dùng để thực hiện, thể hiện, hoặc thực hiện một phong cách ngôn luận và
viết. Theo nghĩa hẹp, có thể hiểu như là những con số vật trang trí mà
luận rộng rãi, là đại diện cho một biểu hiện của người nói hoặc viết. Tất
cả những con số thuộc lĩnh vực phong cách”
Nhưng nó không có
ý nghĩa gì để viết “với phong cách”? Là phong cách của một chất lượng mà
các nhà văn có thể thêm hoặc loại bỏ khi họ vui lòng? Là nó, có lẽ, một
món quà mà chỉ có một số nhà văn xảy ra để được ban phước với? Một phong
cách có thể bao giờ được tốt hay xấu, đúng hay sai - hoặc là nó nhiều hơn một
vấn đề sở thích? Là phong cách của một loại rắc trang trí thêm vào
một đoạn viết - hoặc là nó thay vì một thành phần thiết yếu của văn bản?
Ở đây, dưới sáu
nhóm lớn, là một số trong những cách đa dạng của các cây bút chuyên nghiệp,
trong đó đã trả lời cho những câu hỏi này. Chúng tôi mở với những nhận xét
từ Henry David Thoreau, một stylist giàu tính nghệ thuật, người đã bày tỏ sự
thờ ơ đối với phong cách, và kết thúc với hai trích dẫn từ tiểu thuyết gia
Vladimir Nabokov, người đã khẳng định rằng phong cách là tất cả những vấn
đề, như sau:
1. Phong cách
là thực hành
"Ai quan tâm
đến những gì là phong cách của một người đàn ông, vì thế nó là hiểu, hiểu như
là tư tưởng của ông nghĩa đen và thực sự, phong cách là không hơn so với các
bút stylus, các bút ông viết với. Và nó không phải là sự đánh bóng, mạ vàng ,
trừ khi nó sẽ viết suy nghĩ của mình tốt hơn cho nó. Nó là một cái gì đó để sử
dụng, và không nhìn vào" (Henry David Thoreau).
"Mọi người
nghĩ rằng tôi có thể dạy cho họ phong cách gì các công cụ tất cả là có một cái
gì đó để nói, và nói rằng nó rõ ràng như bạn có thể. Đó là bí mật duy nhất của
phong cách."
(Matthew Arnold)
(Matthew Arnold)
2. Phong cách là
hình thức của nội dung
"Phong cách
ăn mặc của những suy nghĩ, và để cho họ có bao giờ nên chỉ, nếu phong cách của
bạn giản dị, thô, và thô tục, họ sẽ xuất hiện là bất lợi nhiều" (Philip Dormer
Stanhope, Earl của Chesterfield).
"Phong cách
của một người đàn ông nên giống như trang phục của mình nên càng không phô
trương và nên thu hút được sự quan tâm ít nhất có thể” (CEM Joad).
3. Phong cách là
con người
"Phong
cách là chính con người" (George-Louis Leclerc de Buffon)
"Câu nói cũ
của phong cách của Buffon đó là chính con người thật gần sự thật như chúng tôi
có thể nhận được, nhưng sau đó hầu hết những người đàn ông sai lầm ngữ pháp cho
phong cách, vì họ nhầm lẫn đúng chính tả các từ hoặc học cho giáo dục"(Samuel Butler).
"Khi chúng
tôi nhìn thấy một phong cách tự nhiên, chúng tôi ngạc nhiên và vui mừng, vì
chúng ta mong đợi để xem một tác giả, và chúng tôi tìm thấy một người đàn
ông."
(Blaise Pascal)
(Blaise Pascal)
"Phong cách
là dấu hiệu của một tính khí đã được định hình, như dấu vân tay của mỗi người
vậy” (Andre Maurois).
"Bản chất
của một phong cách âm thanh là nó không thể được giảm đến quy tắc rằng đó là
điều sống và thở với một cái gì đó của devilish trong đó - rằng nó phù hợp với
chủ sở hữu của nó chặt chẽ chưa bao giờ nên lỏng lẻo, như da của ông phù hợp
với mình Đó là, trong thực tế, khá là nghiêm trọng một phần không thể tách rời
của anh ta như da .... Nói tóm lại, một phong cách luôn luôn là biểu tượng bên
ngoài và có thể nhìn thấy một người đàn ông, và không thể có bất cứ điều gì
khác" ( HL Mencken )
"Bạn tôi
không tạo ra một phong cách làm việc, và phát triển bản thân, phong cách của
bạn là một hóa thân từ bản thể riêng của bạn" ( Katherine
Anne Porter)
4. Phong cách là
quan điểm (Point of View)
"Phong cách
là sự hoàn hảo của một quan điểm" (Richard Eberhart).
"Ở đâu có là
không có phong cách, có hiệu lực không có quan điểm, về cơ bản, không giận dữ,
không có tiền án, không có tự ngã. Style là ý kiến, treo giặt, tầm cỡ của một
viên đạn, hạt mọc răng" (lexander Theroux).
"Phong cách
là mà chỉ ra làm thế nào nhà văn có bản thân mình và những gì chàng nói là tâm
trượt băng vòng tròn xung quanh chính nó như là nó di chuyển về phía
trước" (Robert Frost).
5. Phong cách
là kỹ năng thực hành
"Điều quan
trọng là cách chúng ta nói nó nghệ thuật là tất cả về nghề thủ
công.. Khác có thể giải thích nghề thủ công như phong cách nếu họ muốn. (US) là những gì
liên kết bộ nhớ hoặc hồi ức, tư tưởng, tình cảm, nỗi nhớ, điềm,
cách chúng tôi thể hiện tất cả những điều đó. Đó không phải là những gì chúng
tôi nói nhưng làm thế nào chúng ta nói nó có vấn đề. "
(Federico Fellini).
(Federico Fellini).
"Từ thích
hợp ở những nơi thích hợp, làm cho các định nghĩa thật sự của phong cách"
( Jonathan Swift)
( Jonathan Swift)
"Web, sau
đó, hoặc mô hình, một trang web ở kết cấu một lần gợi cảm và hợp lý, thanh lịch
và mang thai: đó là phong cách”Robert Louis
Stevenson ).
"Điều bền
nhất bằng văn bản là phong cách, và phong cách là đầu tư có giá trị nhất là một
nhà văn có thể làm với thời gian của mình. Nó trả tiền chậm, đại lý của bạn sẽ
thường lĩnh, nhà xuất bản của bạn sẽ hiểu lầm nó, và nó sẽ mất người bạn có bao
giờ nghe nói để thuyết phục họ độ chậm rằng nhà văn người đặt dấu ấn cá nhân
của mình trên con đường ông viết luôn luôn sẽ trả hết" (Raymond
Chandler).
"Phong cách
của tác giả là hình ảnh của tâm trí của mình, nhưng sự lựa chọn và lệnh của
ngôn ngữ là kết quả của tập thể dục." (Edward Gibbon)
"Một đến
phong cách chỉ với nỗ lực tàn bạo, với bướng bỉnh cuồng tín và tận tâm."
(Gustave Flaubert)
(Gustave Flaubert)
6. Phong cách
là bản chất của vấn đề
"Đối với tôi
phong cách bên ngoài của nội dung, và nội dung bên trong của phong cách, giống
như bên ngoài và bên trong của cơ thể con người Cả hai đi cùng nhau, họ không
thể tách rời" (Jean-Luc Godard)
"Suy nghĩ và
lời nói là không thể tách rời nhau Vật chất và biểu hiện là một phần của một
phong cách là một suy nghĩ sang ngôn ngữ" (Đức Hồng Y John Henry Newman).
"Trong các vấn
đề có tầm quan trọng nghiêm trọng, phong cách, chứ không phải chân thành, là
điều quan trọng" (Oscar Wilde).
"Style, theo
nghĩa tốt nhất của nó, là tiếp thu cuối cùng của tâm giáo dục, nó cũng là hữu
ích nhất tràn ngập khắp toàn thân” (Alfred North Whitehead).
"Phong cách
không phải là một cái gì đó áp dụng một cái gì đó đang dâng trào. Đó là bản
chất của nó được tìm thấy, cho dù bài thơ, theo cách của một vị thần, chịu lực
của một người đàn ông. Không phải là một chiếc váy" (Wallace
Stevens).
"Phong cách
và cấu trúc là bản chất của một cuốn sách, những ý tưởng tuyệt vời là hogwash
....”; "Tất cả các câu chuyện của tôi là súc của phong cách và không ai có
vẻ blush đầu tiên có chứa nhiều vấn đề động học .... (Vladimir Nabokov).
|
“Đây là một bài dịch thô, gần như chưa có sự
hiệu chỉnh về nội dung. Các bạn nên suy luận để có được nội dung tốt nhất”
(Nguyễn Bùi Khiêm).
|
"Phong cách chính là người"
“Phong cách
(…) cũng như màu sắc đối với người họa sĩ, không phải là một vấn đề về kỹ thuật
mà là về cách nhìn. Nó là một phát lộ, vốn sẽ không thể có được bằng những
phương tiện trực tiếp và hữu thức, về sự khác biệt về chất có trong cách mà thế
giới hiện ra với mỗi chúng ta, sự khác biệt mà, nếu không có nghệ thuật, thì sẽ
mãi là bí mật vĩnh hằng của mỗi con người”[1]
Nói cách
khác, phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp
vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi
người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.
Mỗi người sinh ra và lớn len đều có riêng trong mình
một khí chất, năng lực và kinh nghiệm để có thể tiếp thu những cái tốt đẹp và
loại trừ những cái xấu. Qua trình đó dần hình thành trong mỗi chúng ta một vốn
cá tính đặc biệt mà ta hay gọi là phong cách. Xét trên bình diện này, Buy-phong
– một nhà văn nổi tiếng của Pháp từng nói: “Phong cách chính là người”. Quả thật trong cùng một hoàn cảnh
nhưng phong cách của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, mà nó chính là bản
thân người mang phong cách đó. Cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm về câu nói của
Buy-phong để mỗi chúng ta có thêm những hiều biết và dần định hình trong mình
một phong cách riêng. Trong cuộc sống, người ta thường định hình phong cách
theo hai nghĩa. Một là, phong cách nghệ thuật. Đó là phong cách của một nhà
văn, nhà thơ, nhà kiến trúc... hoặc phong cách của một thời đại nào đó.
Hai là, tác phong, tính cách của một người hay một
lớp người nào đó trong xã hội được hình thành một cách tương đối ổn định, làm
nên phong cách riêng của một người hay một lớp người đó.
Phong cách tuy đa dạng như vậy nhưng nhìn chung khi
nhắc đến phong cách ta vẫn thường nhắc đến dấu ấn cá nhân của sự vật. Ngoài ra
một điểm chung của bất kì loại phong cách nào là cũng đều chịu tác động mạnh mẽ
sâu sắc của môi trường sống. Đó là những tác động của truyền thống văn hoá, đạo
đức, tâm lí nghề nghiệp. Nhìn từ bình diện văn học, phong cách cũng đa dạng
nhưng không kém phần sâu sắc.
Buy-phong đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”. Trong
văn học, phong cách là yếu tố cấu thành tác phẩm không thể thiếu. Độc giả cũng
như mọi nhà lý luận văn học mỗi khi nhìn nhận một tác phẩm, người ta thường hay
chú ý đến hai phương diện quan trọng của phong cách văn học là: nội dung và
nghệ thuật. Về nội dung, phong cách là dấu ấn thể hiện cách nhìn nhận con người
và cuộc sống, cách lí giải cuộc sống và con người… Về nghệ thuật, phong cách là
cách lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật, kết cấu ngôn từ, sử dụng ngôn ngữ... Một
tác phẩm hay chỉ được đánh giá khi tạo ra được dấu ấn riêng, mang lại cho người
đọc những lay chuyển xúc cảm nhẹ nhàng mà tinh tế. Chính vì vậy, dù trên bất cứ
bất cứ bình diện nào, khi đánh giá tác phẩm hay con người, phong cách cũng vừa
là tiêu chí quan trọng, vừa là nơi thể hiện cái tính cách cũng như tâm hồn
trong tác giả. Xin một lấy một góc nhỏ của nền văn học Việt Nam để chứng
minh và làm rõ hơn khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”.
Nhắc đến văn học Việt Nam, nhắc đến phong cách con người
tôi dần mường tượt ra sợi dây lien kết giữa chúng. Nguyễn Đăng Mạnh trong “Nhà
văn, tư tưởng và phong cách” đã gắn phong cách với cá tính nhà văn khi ông
xác định: “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là
lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau
đó, trong “Nhà văn Việt Nam
hiện đại: chân dung và phong cách, ông lại một lần nữa coi phong cách “phụ
thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó,
“dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài
tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và
hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ
kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ. Nguyên Ngọc là
cây bút sử thi - lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ... Rồi
Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi
tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu
Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”.
Phong cách ở mỗi bình dịên đều đa dạng và sâu sắc.
Văn học chỉ là một trong số những bình diện mà tôi muốn vay mượn nhằm đánh giá
đúng và chính xác khi nhìn nhận con người. Tôi dần nhận ra câu nói của
Buy-phong hết sức chập chờn. Bởi vì như tôi đã nói các định ngữ đã để định
nghĩa chập chờn. Như tôi đã nói về một số phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui
mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ
kính... có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được,
mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng”
này làm cho các định nghĩa trên không có giá trị khái niệm hóa đã đành, mà cả
giá trị thao tác cũng không rõ rằng. Đó chính là sự chập chờn trong câu nói
“Phong cách chính là người” của Buy-phong: Nó tạo cho những người đọc cho ta nhiều
cách nhìn nhận riêng. Đó là sự tinh tế và óc sáng tạo khi nhìn nhận vấn đề của
Buy-phong.
Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng
có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc,
tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ
cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã
chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ
thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác
giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào
cũng có phong cách.
Chính từ đó, mỗi học sinh chúng ta, nhìn nhận từ câu nói của Buy-phong, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tập riêng cho mình thói quen nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng, tinh té. Đồng thời cần không ngừng trau dồi vốn từ và sử dụng nó một cách linh hoạt. Đó chính là điều kiện dần cấn và đủ để ta đãn hình thành trong mình một phong cách nhỏ, nơi thể hiện cái tôi cá nhân của ta trong cuộc sống.
Chính từ đó, mỗi học sinh chúng ta, nhìn nhận từ câu nói của Buy-phong, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tập riêng cho mình thói quen nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng, tinh té. Đồng thời cần không ngừng trau dồi vốn từ và sử dụng nó một cách linh hoạt. Đó chính là điều kiện dần cấn và đủ để ta đãn hình thành trong mình một phong cách nhỏ, nơi thể hiện cái tôi cá nhân của ta trong cuộc sống.
“Phong cách chính là người”- Buy-phong đã cho ta một
nhận định sâu sắc, một bài học khi ta bước vào cuộc sống. Riêng tôi, nỗ lực để
tạo riêng cho mình một phong cách, một cá tính sx là động lực giúp tôi vượt qua
mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống!
Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 1)
TS.
Nguyễn Khắc Sính
Trong các vấn đề về phong cách văn
học ở ta, cho đến nay, trong các công trình, giáo trình lí luận phần lớn đều
nói tới vấn đề phong cách thời đại, phong cách cá nhân của nhà văn. Các khía
cạnh khác của phong cách như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, phong
cách dân tộc tuy cũng có được nhắc tới nhưng hầu như chưa đựơc bàn bạc và vận
dụng vào thực tiễn bao lăm. Theo nhịp độ phát triển và giao lưu, hội
nhập của cuộc sống hiện nay, vấn đề phong cách chung đựơc nhìn nhận rõ hơn và
đã đến lúc cần xem, xét cụ thể vấn đề rất phức tạp này.
Nhìn vào lịch sử vấn đề, thì từ xa
xưa cho đến hiện đại, trên phạm vi toàn thế giới, vấn đề phong cách chung bao
giờ cũng được xem xét bên phong cách cá nhân, thậm chí là mẫu số chung đề nhìn
nhận ra phong cách cá nhân. Ở thời Hi Lạp cổ, theo Aristote, phát ngôn lý tưởng
là kết hợp hài hòa giữa logic và cảm xúc dấu hiệu của nó là có kết cấu và có
phong cách. Kết cấu đòi hỏi bài văn phải có bố cục gồm nhiều phần liên
kết hợp lí, còn phong cách đòi hỏi phải có các phẩm chất chung, cơ bản và các
phẩm chất cá nhân. Phong cách được hiểu chủ yếu là phong cách ngôn ngữ, các
phương tiện của nó là cách sử dụng đúng đắn các từ đồng nghĩa, đồng âm, các
tính từ, các ẩn dụ …Aristote viết trong Tu từ học (Rhetorica) như sau: “Phong
cách sẽ có được các phẩm chất cần phải có, nếu như nó tràn đầy tình cảm, nếu
như nó phản ánh đựơc tính cách và phù hợp với tình hình thực tế của sự vật”.
Các phẩm chất cơ bản đó còn thể hiện qua nhịp điệu, bố cục …theo ông, phong
cách (ngôn ngữ) phải được trau chuốt và trang nhã. Đó chính là phong cách ngôn
ngữ chung của ngôn ngữ văn học. Đarli và Vamana, hai nhà lý luận văn nghệ cổ Ấn
Độ trong các công trình của mình (Kaviadarsa và Kavialankarasutra) cũng
đã trình bày học thuyết về các phẩm chất của phong cách chung – phong cách hay,
bao gồm cả các yếu tố tu sửa ngôn từ tiêu biểu cho các tác phẩm, đặc biệt là
nguyên tắc dhvani - ám thị , chứ không biểu trực tiếp, làm cho văn bản giàu
chất thơ. Các nhà lý luận cổ điển Trung Quốc như Lưu Hiệp, Chung Vinh, Tư Không
Đồ cũng nêu ra tư tưởng về chuẩn mực văn chương như, “ lục nghĩa” của Lưu Hiệp.
Như vậy, phong cách chung như là chuẩn mực của văn chương đã đựơc đề xuất từ
sớm.
Khái niệm phong cách cá nhân thực sự
được đề xuất từ thế kỷ XVIII. Với Buffon, phong cách là sự biểu hiện hoàn mỹ vào tác
phẩm cái nhân cách, tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Xin lưu ý
là khái niệm phong cách của Buffon không chỉ áp dụng cho văn học, mà cho mọi
sáng tác về tư tưởng như khoa học, triết học, lịch sử. Về sau Marx cũng sử dụng
khái niệm phong cách này để đánh giá tác phẩm về kinh tế học của Prudon. Tư
tưởng này được Flaubert (Pháp), Rauli (Anh) tán thành.
Với Goethe, phong cách là sự thống nhất chủ
quan và khách quan trong sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên mọi sự mô
phỏng đơn giản đối với tự nhiên, vừa vựơt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ
quan của nhà văn. Với Hégel, phát triển tư tưởng của Phôn Rumô, phong
cách được hiểu là phương thức biểu hiện, quy luật nghệ thuật của một loại hình
nghệ thuật nào đó: phong cách thơ, phong cách nhạc kịch.
Như vậy, ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX, khái niệm phong cách không phải chỉ nhấn mạnh vào phong cách cá nhân. Đi
vào lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ phải nhường chỗ cho các
phương diện khác như cá tính, quy luật nghệ thuật. Đáng chú ý là vào thế kỷ
XVIII, khi khái niệm phong cách cá nhân đựợc đề xuất thì tại Đức, nhà mỹ học
Winc Kelmann đã đưa ra khái niệm phong cách như một phạm trù của lịch sử nghệ
thuật. Ông đã nói đến phong cách thời đại và phong cách cá nhân nghệ sĩ trong
các dân tộc; do thời đại đổi thay mà nghệ thuật có những phong cách khác
nhau…Ví dụ, ông chia nghệ thuật Hi Lạp cổ làm 4 thời kỳ với 4 phong cách: Phong
cách đường nét, Phong cách cao cả, Phong cách đẹp, Phong cách chiết trung.
Sang thế kỷ XIX, H. Taine trong Triết
học nghệ thuật (1865 – 1869), quan niệm văn hóa lịch sử về văn học nghệ
thuật dựa trên cơ sở mô phỏng đời sống, cũng nói tới phong cách thời đại. Chẳng
hạn, phong cách nghệ thuật Hi Lạp cổ, Phong cách Cơ đốc giáo, Phong cách tao
nhã quý tộc cung đình thời Louis XIX có ảnh hưởng tới hầu như toàn châu Âu: Ý,
Anh, Nga, Đức, Tây Ban Nha. Khi nào văn học xa rời thực tế thì phong cách suy
thoái.
Vào thế kỷ XX Ken Viper trong sách Lịch
sử các phong cách của nghệ thuật tạo hình (1910), Henrích Vônfơlin trong
công trình Các khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật – vấn đề tiến hoá của
phong cách trong nghệ thuật mới (1915), tác giả Mỹ W.Fleming trong sách Nghệ
thuật và quan niệm (1947), cũng đều lấy khái niệm phong cách chung, phong
cách thời đại, trào lưu để nghiên cứu mô tả quá trình lịch sử của nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu văn học Nga D.S.Likhachov nhận định: “ Trong thời đại của
chúng ta có thể nói về phong cách thời đại, như phong cách barôcô trong chừng
mực mà nó thể hiện trong tất cả các loại hìnhhoạt động nghệ thuật, trong những
giới hạn thời gian và giới hạn địa lý.” Phải chăng trong mọi thời đại đều
tồn tại cái mà chúng ta có thể gọi là phong cách thời đại. Xem thế đủ thấy
trong lịch sử văn học nghệ thuật khái niệm phong cách chung luôn luôn có vai
trò của nó, bên cạnh khái niệm phong cách cá nhân. Thậm chí nó còn có cả vai
trò trong các thời đại, khi điều kiện để xuất hiện phong cách cá nhân chưa chín
muồi.
Các công trình lí luận đầu thế kỷ XX
như của V.Girmunski, của E.Utitz đều đặt khái niệm phong cách thời đại vào vị
trí quan trọng của lí luận về phong cách.
Thế nhưng về phương diện lí luận,
trong giới lí luận các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đặc biệt từ khi lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ra đời vào những năm
30 của thế kỷ XX, người ta có xu huớng chỉ thừa nhận phong cách cá nhân như là
sự thể hiện đa dạng của phương pháp chung, sự thống nhất về phương pháp và sự
đa dạng của phong cách cá nhân, và như vậy đã thu hẹp phạm vi
biểu hiện của hiện tượng phong cách, xa rời một truyền thống nghiên cứu đã có
hàng trăm năm.
Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 2)
Công trình Lí luận phong cách
(1968) của N.Sokolov có thể coi là tác phẩm đầu tiên trong các nước xã hội chủ
nghĩa đặt lại vấn đề phong cách. Ông khẳng định phong cách là một hiện tượng
nghệ thuật, thể hiện quy luật của nghệ thuật, là phạm trù thẩm mỹ trong tất cả
mọi nghệ thuật. Bản chất của mọi sự thống nhất của mọi thành tố nghệ thuật theo
những quy luật đặc thù. Đi theo quan điểm của một loạt tác giả như : H.Vônfơlin,
V. Handenstein, Phơ rích, K.Viper, chủ yếu chỉ thừa nhận phong cách như một
hiện tượng lịch sử, xã hội, thời đại chứ không phải thừa nhận phong cách cá
nhân! Ngược lại với quan điểm quen thuộc của Trofimov, Timofiev, Elsbes, M.B.
Khravchekon… N.Sokolov cho rằng “ Xem phong cách là
hiện tượng cá nhân dễ đưa đến sự phủ nhận bản chất xã hội của họ. Không có
phong cách cá nhân tách rời xã hội”. Ông không xem cá tính sáng
tạo cá nhân ( theo cách hiểu của Khravchenko) là nhân tố tạo thành phong cách,
bởi vì theo ông, nếu đã xem phong cách là một quy luật của nghệ thuật thì không
được xem nó như là biểu hiện của cá tính sáng tạo vốn là một hiện tượng tâm lý,
bởi hai phương diện đó nằm ở hai bình diện khác nhau. Xin lưu ý thêm, cũng vào
lúc này (1967) G.Antonine ở Pháp đã nói Saint Beuve không hiểu gì Stendhail bởi
vì hai ông mải đi tìm tiểu sử của ngài Beile! Từ đó ông cho rằng phong cách cá
nhân là sự biểu hiện của phong cách chung, tức là phong cách thời đại, phong
cách trào lưu. Ông đã lập luận rằng, nếu phương pháp chung có sự thể hiện riêng
về mặt cá nhân thì đó là phương pháp riêng chứ không phải là phong cách riêng.
Còn đã nói phong cách cá nhân thì đã là sự thể hiện riêng của
phong cách chung phải phục tùng quy luật chung. Như vậy, người ta không thể
nghiên cứu phong cách riêng mà không xét đến phong cách chung.
Đã đến lúc phải đi tìm những biểu
hiện và cơ sở lý luận của phong cách chung, bởi vì sự vận động của văn học
không thể chỉ là sự tích luỹ không ngừng các phong cách cá nhân mà còn ở chỗ
mỗi giai đoạn văn học đều mang lại cho lịch sử một phong cách mới, và không có
lý do gì để chỉ nói phong cách cá nhân mà dè dặt, không nói đến phong cách
chung. Mặt khác, phong cách cá nhân không thể tự nó hình thành mà không có tác
động của một phong cách chung nào đó. Trong truyền thống nghiên cứu văn học
Trung Quốc xưa, người ta phân biệt được phong cách văn học Hán với phong cách
thời Lục Triều, phân biệt được phong cách Đường với phong cách Tống, phân biệt
Nguyên, Minh , Thanh. Ở phương Tây, cùng là nghệ thuật thời Trung đại, nhưng
người ta phân biệt phong cách Bizantin thời kì đầu với phong cách La Mã tăng lữ
và phong cách La Mã phong kiến; cùng là phong cách Barroco thời chống cải cách
tôn giáo, phong cách Barroco quý tộc thời Louis XIV, phong cách Barroco hạn chế
của thời khôi phục vương triều. Nhưng điều đó đã trở thành thường thức của giáo
trình về lịch sử nghệ thuật.
Vậy phong cách chung là gì? Nó có
những đặc điểm gì?
Theo D.S. Likhachov, thứ nhất, phong
cách chung là phong cách nghệ thuật mà nó vựợt lên trên chất liệu cụ thể như
ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, thể loại, cá tính, để có thể có đặc điểm chung ảnh
hưởng tới các loại hình nghệ thuật khác nhau. Chẳng hạn như phong cách Barroco
đã nói trên, thể hiện trong hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, văn học.
Tương tự, phong cách lãng mạn trong văn học 1932 – 1945 của Việt Nam vừa thể
hiện trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, trong thơ mới, trong âm nhạc và trong
hội hoạ. Trong văn học, phong cách chung
thể hiện ở tẩt cả mọi thể loại, và đó là một lớp, một phạm trù phong cách bên
cạnh các lớp khác như phong cách cá nhân, phong cách dân tộc, phong cách trào
lưu….
Thứ hai, phong cách chung, đặc biệt
là phong cách thời đại là sự biểu hiện của trình độ kỹ thuật biểu hiện, của
trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã hình thành nên phong
cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế giới và con người, cảm
thụ bản thân nghệ thuật. Chẳng hạn nghệ thuật Ai Cập cổ đại có nền tảng là tôn
giáo Ai Cập, tôn giáo về cái chết; trái lịa, nền tảng của nghệ thuật Hi Lạp cổ
đại là thế giới quan yêu đời. Khi nào nội dung và hình thức cuộc sống thay đổi
thì nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó cũng là thay đổi, và sự đổi
thay đó “ chính là đổi thay phong cách” (E.Utitz: Phong cách là gì?).
Trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945, giới khoa học đã nói đến phong cách cá nhân của các nhà văn, nhà
thơ tiêu biểu; cũng đã nói đến phong cách hiện thực, phong cách lãng mạn. Nhưng
cũng có thể nói đến phong cách thời đại thể hiện ở các điểm sau:
+ Một là, quan niệm lí tính đối với cuộc đời, niềm tin vào khoa học, tiến
bộ, lẽ công bằng, tư tưởng bình đẳng, tự do. Khi Thơ mới đòi hỏi thể hiện nhu
cầu giải phóng cá tính trong tình cảm cũng là lúc các tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn đấu tranh cho các quyền con người của cá nhân; và cũng là lúc các tiểu
thuyết hiện thực lên án xã hội bất công chà đạp lên số phận con người sau lũy
tre làng. Một số nhà văn Tự lực văn đoàn có phong cách hiện thực chính là do
ảnh hưởng của phong cách thời đại trong cảm hứng tố cáo và trữ tình. Văn học
Cách mạng xuất hiện trong giai đoạn này cũng mang tính lý và tính lý tưởng rất
đậm.
+ Hai là, sự hiện đại hóa đồng loạt các thể loại văn học do tiếp thu ảnh
hưởng của văn học phương Tây. Thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch
nói, du kí, tùy bút, phê bình văn học nhất loạt xuất hiện, thay thế hẳn các thế
loại truyền thống. Các hình thức truyền thống như thơ bảy chữ, năm chữ, lục
bát,…đều được cấu trúc lại.
+ Thứ ba, các nhà văn, nhà thơ dù sáng tác theo thể loại nào đều đã cắt
đứt với truyền thống tập cổ mà tự mình cấu tứ, sáng tạo, vai trò chủ thể của
tác giả đặt lên hàng đầu. Người ta phân biệt rõ ràng sáng tác và phóng tác,
lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao…cùng
một loạt nhà Thơ mới đa dạng về phong cách cá nhân đã tiêu biểu cho ý thức chủ
thể nổi bật, như là một đặc trưng của phong cách thời đại.
+ Thứ tư, khác với lối văn truyền thống nặng về vần điệu đăng đối với
điệu ngâm nhịp nhàng, lối văn hiện đại chuyển hẳn sang văn xuôi: văn tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự mang hình thức khẩu ngữ, kịch hóa, thân mật,
suồng sã trong khoảng cách gần, lời thơ về cơ bản là mang hình thức điệu nói
đầy giọng điệu giãi bày, tâm tình.
Một yếu tố quan trọng nữa của phong
cách là cách bố cục, kết cấu, tổ chức nội dung tác phẩm, thể hiện cách cảm thụ
của tác giả là ngừơi đọc kiểu mới. Điều nổi bật của văn học giai đoạn này là
kết cấu mở, mở từ giữa chừng và kết thúc lửng. Văn đã vậy mà thơ cũng vậy.
Nhưng đặc điểm trên đây xác định
phong cách thời đại cơ bản trong văn học 1930 – 1945, cho phép phân biệt nó với
văn học giai đoạn trước và sau đó.
Phong cách thời đại có những nét
truyền thống nhưng không đồng nhất, nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hóa
theo các yếu tố khác nhau như phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh
hướng tư tưởng xã hội, thẩm mỹ. Nhưng phong cách thời đại đó xây dựng trên nền
tảng trạng thái văn hóa xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác
bỏ.
Phong cách văn học dân tộc không đơn
giản chỉ là tính độc đáo dân tộc về đề tài, chủ thể, ngôn ngữ, thể loại mà còn
là quy luật riêng của sáng tạo nghệ thuật. Phong cách dân tộc qua các thời kỳ
đều có sự đổi thay và phát triển, cho nên theo Sokolov, có thể nói đến các
phong cách dân tộc.
Cũng vậy, phong cách trào lưu tuy một
mặt có phạm vi bao quát nhỏ hơn phong cách thời đại và dân tộc, song xét về mặt
khác nó lại rộng hơn, có tầm vóc quốc tế. Phong cách thời đại trong giai đoạn
tăng cường giao lưu quốc tế cũng có tầm vóc quốc tế. Trong các tương quan đó,
dân tộc là phạm trù có sự kết tinh phong cách thời đại và trào lưu. Khi xét tới
phong cách chung, thiết nghĩ phải tính đến các tương quan ấy với nhau mới làm
sáng tỏ một phong cách nào đó.
Đi tìm phong cách chung của văn học (phần 3)
Xét về bản chất
của phong cách, cho đến nay có nhiều cách thể hiện khác nhau. Tuy nhiên có thể
nhìn phong cách theo bốn phương diện liên quan chặt chẽ với nhau như sau.
1. Phong
cách là dấu hiệu độc đáo, không lặp
lại, đánh dấu phẩm chất thẩm mỹ riêng biệt của một hiện tượng văn học
nào đó. Phong cách hoặc là “con người”, là sự sáng tạo, sự mới
mẻ làm nên vẻ riêng biệt ít thấy hiện tượng văn học khác nhưng lại nhất quán,
xuất hiện thường xuyên ở hiện tượng văn học cụ thể. Cần hiểu rằng sự bền vững,
nhất quán nói ở đây là nói từ cái cốt lõi, cái trong bản chất, còn trong quá trình
triển khai thì phong cách lại đòi hỏi sự đa dạng và đổi mới. Muốn đạt được yêu
cầu ấy, phong cách cần phải có phẩm chất thẩm mỹ, nghĩa là khi nói tới một hiện
tượng văn học nào đó có phong cách thì hiện tượng văn học ấy phải mang lại cho
người đọc, người xem, người nghe một sự hưởng thụ thẩm mỹ dồi dào. Ở đây cũng
cần lưu ý thêm một điểm: phong cách phải có phẩm chất thẩm mỹ nhưng phẩm chất
này không chỉ thuần túy về mặt hình thức, kỹ thuật mà tùy thuộc vào từng trường
hợp cụ thể nó sẽ biểu hiện chủ yếu ở phạm vi nội dung hay phạm vi hình thức.
2. Phong
cách là phẩm chất của chính thể. Khi
định nghĩa về phong cách, dù có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau,
nhưng các định nghĩa đó đều đề cập đến “tính hệ thống”, “tính thống nhất”,
“tính tổng hòa”,…Điều này chứng tỏ, phong cách là phẩm chất của hệ thống thể
hiện qua các yếu tố chứ không phải phẩm chất do tổng cộng các thuộc tính của
các bộ phận của tác phẩm. Phong cách là phẩm chất xuyên suốt qua
các yếu tố tác phẩm, qua các tác phẩm của một tác giả hoặc các tác giả của một
trào lưu nghệ thuật. Ngay cả khi nói phong cách nghệ thuật là tính độc đáo của
hình thức nghệ thuật thì cũng phải thấy rằng đó không phải là hình thức cụ thể
của một tác phẩm cụ thể, cá biệt mà là cái hình thức được lặp đi lặp lại, vừa
thống nhất vừa đa dạng trong nhiều tác phẩm khác nhau của một nhà văn, một
trường phái hay một thời đại văn học, nghệ thuật (khi chúng ta nói về phong
cách Nguyễn Tuân, phong cách Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1932- 1945,v.v…là đứng
trên quan niệm này). Vì thế, có thể nói phong cách nghệ thuật là hình thức siêu
hình thức cụ thể của sáng tác nghệ thuật.
3. Phong
cách là phẩm chất tương đối ổn định
của sáng tác. Các đặc điểm của nó được lặp đi lặp lại tương đối thường
xuyên, ít thay đổi. Nhưng đây là ổn định trong sự phong phú đa dạng, có biến
đổi chứ không phải là sự lặp lại giản đơn, nghèo nàn. Tuy nhiên
cần lưu ý rằng sự ổn định là cơ bản, nhờ thế nó mới trở thành phong cách để
phân biệt với các phong cách khác. Chẳng hạn, có thể nói tới phong cách trữ tình
của Tố Hữu bởi nét trữ tình này về cơ bản là ổn định, được lặp đi lặp lại tương
đối thuờng xuyên trong các sáng tác của ông. Nhưng trữ tình trong Từ ấy không
hoàn toàn giống trữ tình trong Việt Bắc, nó cũng khác với trong Gió
lộng, Ra trận, và đặc biệt là khác với trữ tình trong Một tiếng
đờn.
4. Phong cách là
hình thức của chủ thể. Phong cách là gương mặt tinh thần, Buffon đã từng khẳng
định: phong cách là bản thân con người. Dĩ nhiên, người ở đây không phải là con
người trừu tượng, chung chung mà là người với những phẩm chất trí tuệ, tình
cảm, cá tính cụ thể. Nhưng cũng không thể giản đơn coi văn như
con người mà đó là tài năng tư duy, tổ chức của con người. M.Bakhtin khẳng định
tính tích cực của chủ thể trong sáng hình thức, khẳng định cái nhìn mới
là yếu tố căn bản của phong cách nghệ thuật. M. Prust, D.S. Likhachov cũng đồng
tình với quan niệm này. Tư duy, hệ hình tư duy, thái độ cảm xúc, quan niệm giá
trị tạo thành hình thức cảm nhận của chủ thể. Hình thức cảm nhận của chủ thể
dẫn đến những phát hiện mới về hình thức, bút pháp, kỹ thuật, tạo thành nền
tảng của phong cách. Nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc Lý Trạch Hậu cho rằng
lịch sử của phong cách là lịch sử tâm lý cảm nhận của nhân loại hay dân tộc. Đó
là hình thức của chủ thể, cho nên phong cách có quan hệ mật thiết với phương
pháp nghệ thuật.
Như vậy có thể hiểu, bản chất nghệ
thuật, thẩm mỹ của phong cách là: không phải mọi hình thức của chủ thể tạo
thành phong cách mà là các hình thức chủ thể tạo thành giá trị nghệ thuật. Vì
thế, Viper, Sokolov đều cho rằng có những tác phẩm không có phong cách, có
những giai đoạn giao thời không có phong cách.
*
* *
Từ những phân tích trên đây có thể
thấy, khi đề cập đến vấn đế phong cách thì không chỉ nói đến một cấp độ phong
cách nhà văn hay phong cách tác phẩm mà còn phải nghiên cứu kỹ càng các cấp độ
khác như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, trường phái…Từ phong cách cá
nhân nhà văn đến phong cách thời đại, trào lưu đều được soi rọi dưới ánh sáng
của phong cách chung. Ví dụ, khi chúng ta nói đến phong cách hiện thực
chẳng hạn. Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu văn học, ngoài sự
thống nhất về phương pháp sáng tác còn có sự thống nhất về phong cách. Trước
hết là chi tiết chân thực của đời sống hàng ngày dùng để dệt nên bức tranh đời
sống như nó vốn có – đây là nguyên tắc mô tả nên nó thuộc phạm trù phong cách.
Đặc điểm thứ hai, như Engels nói, chủ nghĩa hiện thực không muốn bộc lộ khuynh
hướng một các lộ liễu mà muốn nó được toát ra từ tình huống đây là thuộc phương
thức thuyết phục người đọc và phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh đời sống
như M.B. Khravchenko từng nói. Một đặc điểm nữa của phong cách hiện thực, theo
D.S Likhachov diễn đạt, là khoảng cách gần gũi của người kể đối với nhân vật,
thâm nhập vào nội tâm, kể từ bên trong. Đặc điểm cuối cùng là sự bộc lộ yếu tố
cá nhân và phong cách cá nhân nhà văn.
Đặc điểm phong cách chung này làm cho
hiện tượng phong cách cá nhân của trào lưu hiện thực phong phú và đa dạng chưa
từng có. Hay khi chúng ta nói phong cách thời đại cũng vậy. Khái niệm
phong cách thời đại dùng để chỉ một phong cách chung, phong cách lớn bao trùm
mọi thể loại trong một loại hình, mọi loại hình trong thời đại ấy. Sự bao trùm
này không chỉ ở một quốc gia, dân tộc mà nó chứa đựng tính chất xuyên dân tộc,
xuyên quốc gia cùng chịu sự chi phối chung của một ý thức hệ nhất định, ví dụ
như ý thức hệ tôn giáo trong phong cách Gotic bao trùm hầu hết các dân tộc từ
phương Tây đến phương Đông, hay ý thức hệ vô sản trong phong cách thời đại của
các nền văn học nghệ thuật từ thập niên 20 đến thập niên 90 của thế kỷ XX ở các
nước Nga, Trung Quốc, Việt Na, Cu Ba, v..v….
Thực tế này khiến chúng ta nghĩ rằng,
không thể nghiên cứu kỹ càng vấn đề phong cách chung của văn học. Ngược lại,
chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện hành trình “đi tìm” nó một cách cẩn trọng
để cho thấy, sáng tác văn học trong một thời đại nào đó, một dân tộc nào đó
không phải là tổng cộng giản đơn các phong cách cá nhân đa dạng mà giữa chúng
có mối liên hệ nội tại tạo thành một phong cách bao trùm lên các phong cách cá
nhân ta có thể gọi là phong cách chung của văn học.
(Đăng
trong Tạp chí NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, Số 2/2008)
Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012
Báo chí học là gì? Đối tượng nghiên cứu của báo chí học là gì?
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012
Mối quan hệ văn học và báo chí
Báo chí Việt Nam hiện nay có chịu nhiều ảnh
hưởng của văn chương hay không? Đó là vấn đề còn đang gây nhiều tranh cãi. PGS
- TS. Nguyễn Thị Minh Thái, giảng viên khoa Báo chí (ĐH Quốc gia Hà Nội) đã có
cuộc trao đổi ngắn với Tuần Việt Nam về vấn đề này.
- Là một giảng viên của khoa báo
chí, đồng thời bà cũng là một người viết văn, một nhà báo. Vậy xin được hỏi bà,
xét trên thực tế hoạt động báo chí thì ngày nay liệu văn chương và báo chí có
còn bất phân?
Văn - báo không bất phân. Văn là văn,
báo là báo. Chỉ có duy nhất một chỗ đáng lưu ý là những tác phẩm văn học đăng
trên báo chí và những bài viết mang tính văn bản truyền thông đặc thù. Văn báo
bất phân chỉ tồn tại trong nửa đầu thế kỉ 20 khi Việt Nam chưa có nổi
một nền văn học. Thời đó, báo chí là nơi đăng tải tác phẩm văn học, là nơi dạy
người ta viết văn.
- Nhưng trên báo chí hiện nay vẫn tồn tại những bài
viết miêu tả dông dài. Đó có phải là do ảnh hưởng của cách viết văn?
Cần phân biệt tính văn học với sự dông dài.
Báo chí rất dứt khoát, rõ ràng. Có 2 loại tác phẩm: một là tác phẩm thông
thường mang tính thông tấn cao, không pha tạp văn chương, đòi hỏi sự trong sáng
của thông báo và ngôn ngữ. Mỗi một chữ là một thông tin, mỗi một dòng là một
thông báo, cả tác phẩm phải đạt tới sự trong sáng đó.
Ngoài ra có một loại văn bản khác chồng
lên văn bản loại một là văn bản truyền thông đặc thù dùng để bình luận về các
tác phẩm văn học nghệ thuật. Văn bản này được viết bằng một thứ bình luận văn
chương.
Thực tế đó dẫn đến một số người sự lầm lạc.
Bởi mỗi một loại truyền thông như vậy đòi hỏi một cách viết riêng. Báo chí dứt
khoát từ chối cách viết của văn học.
- Những bài viết như vậy cần được
gọi tên là gì?
Làm gì có tên gọi. Đấy là những tác
phẩm kém cỏi và ngu ngốc, đáng vứt vào sọt rác. Không thể đổ lỗi lầm đó cho việc
ảnh hưởng của văn học, không thể làm nhục văn học. Không thể viết dài mà đổ tội
cho văn học được. Ngắn dài không quan trọng mà quan trọng là hàm lượng thông
tin.
- Lấy ví dụ ở thể loại phóng sự, báo
chí nước ngoài coi trọng yếu tố thông tin. Vậy tại sao phóng sự của Việt Nam xuất hiện
quá nhiều cái "tôi" của tác giả (cái "tôi" của tác giả vẫn
được coi là một đặc trưng trong lĩnh vực viết văn)?
Bởi phóng sự Việt Nam sinh ra
trong một hoàn cảnh văn hóa khác. Phóng sự phải phục vụ cho nền văn hóa ấy và
đã được Việt Nam
hóa. Phóng sự Việt Nam viết
theo cách của Việt Nam,
tại sao lại phải viết theo cách của phương Tây. Cuối cùng còn phải xét đến: Một
phóng sự nào đó có phải phóng sự báo chí không, có đủ hàm lượng và giá trị
thông tin, được viết đúng chính tả hay không?
Nó sẽ là một tác phẩm báo chí nếu đáp
ứng được hai tiêu chí: Có một góc nhìn, đưa được một thông báo cốt lõi. Một phóng
sự không thể đưa cùng lúc 4 thông báo cốt lõi. Tuy nhiên, cái nhìn của người
viết phóng sự tuyệt nhiên không thể giống cái nhìn của nhà văn: Anh không thể
tưởng tượng, hư cấu, bịa tạc. Tiêu chí thứ hai là nó có những chi tiết để phục
vụ cho thông báo cốt lõi đó.
- Vậy với những người có gốc viết
văn rồi lại đi làm báo như bà thì sao?
Bài báo cần viết kiểu gì, tôi sẽ viết kiểu
đấy. Tôi viết một tin chắc chắn khác một bài thời sự và suy nghĩ, xã luận. Tôi
có một nhà báo và một nhà văn trong người. Hai cái đó không ảnh hưởng gì đến
nhau, viết cái gì ra cái đấy. Có chăng tôi dùng cách viết văn chương để viết
phê bình những tác phẩm về văn chương và nghệ thuật.
- Theo quan điểm của bà, cần phải
làm gì để rạch ròi trong cách thể hiện bài viết?
Người viết phải là chủ thể của bài
viết. Khi làm báo thì tư cách nhà báo là số 1. Anh có thể vay mượn phương pháp từ
các loại hình khác nhưng phải nhận thức rằng mình là người đưa thông tin, đưa
cái mới.
Ví dụ: Nhà báo có thể người vẽ biểu đồ,
nhưng là biểu đồ đưa thông tin và là một cửa tiếp nhận cho độc giả. Còn khi tôi
viết về chân dung nghệ thuật, tôi vẫn mượn ngôn ngữ văn chương nghệ thuật để
diễn đạt.
- Cảm ơn PGS!
Nguồn: http://www.tuanvietnam.net/
Phóng sự văn học và phóng sự báo chí
Phóng sự là một thể loại tiêu biểu trong loại hình tác
phẩm ký tự sự. Vào những điều kiện lịch sử xã hội thuận lợi, phóng sự được sử
dụng rộng rãi ở cả làng văn lẫn làng báo. Chính tính chất “lưỡng sinh” đặc biệt
này đã khiến cho phóng sự được cắt nghĩa và lý giải bằng nhiều quan niệm khác
nhau. Có thể nói, phóng sự là một thể loại phức tạp, không dễ nhận diện các đặc
trưng thể loại đích thực như một số thể loại khác cùng loại hình ký. Dẫu vậy, nhìn
chung, các kiến giải về bản chất thể loại phóng sự của giới nghiên cứu văn học
và báo chí hiện nay (ở trong nước cũng như ngoài nước) đều thống nhất ở một
điểm, coi phóng sự là thể loại nằm giữa văn học và báo chí. Điều này có thể
được xem như một tiền đề về lý luận để từ đó nhìn nhận, nghiên cứu hiện trạng
phát triển của phóng sự theo tinh thần “phân môn biệt loại” tương đối với các
thể loại văn học khác.
Tuy nhiên, thực tế lại có phần phức tạp hơn nhiều, bởi
lẽ có những tác phẩm phóng sự chỉ thuần túy là những trang ghi chép, tả thực,
thông tin về sự kiện khách quan. Bên cạnh đó, có những tác phẩm phóng sự dù vẫn
viết về những “sự thực ở đời” nhưng lại nghệ thuật không kém những tác phẩm
nghệ thuật đích thực. Nếu soi chiếu ở những chiều kích sâu hơn ta sẽ thấy bản
thân tác phẩm phóng sự luôn chịu sự qui định của nhiều tác nhân để có thể kết
tinh thành những sắc diện thẩm mỹ phần nào mang giá trị văn chương hay chỉ là
những đường ray thông dẫn sự kiện khách quan đơn thuần. Vì vậy rất cần có sự
phân biệt để định vị phẩm chất đích thực cho các tác phẩm được gọi là phóng sự
nói chung.
Lâu nay, các nhà nghiên cứu lý luận văn học và lý luận
báo chí đã bàn nhiều về sự khác biệt giữa ký văn học và ký báo chí nhưng lại
chưa mấy chú tâm phân biệt phóng sự báo chí với phóng sự văn học. Nếu có chăng
chỉ là những phác thảo sơ lược, thiếu hệ thống toàn diện. Sự so sánh nếu chỉ
dừng lại ở cấp độ loại hình cơ bản nhiều khi chưa soi tỏ các tiểu tiết phức tạp
nảy sinh ở cấp độ thể loại. Hơn thế, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ trước trở
lại đây, sự bùng nổ trở lại của thể loại phóng sự còn kéo theo xu hướng tách
bạch khá rõ ràng, trong lối thể hiện, phóng sự báo chí và phóng sự văn học.
Cùng xuất hiện trên mặt báo, cùng mang danh phóng sự, nhưng con đường vươn tới
đích của sự thật ở hai loại phóng sự này có nhiều điểm khác biệt. Vì vậy việc
thiết lập một “giải phân cách” mềm mại, tương đối nhằm khu biệt chúng không chỉ
có ý nghĩa đối với người nghiên cứu mà còn hết sức cần thiết cho người sáng tạo
cũng như người tiếp nhận.
Tính chất thông tin trong tác phẩm
Nhìn chung, các thể loại ký đều ghi chép, phản ánh các
sự kiện có thật trong hiện thực khách quan. Riêng với phóng sự thì ngoài tính
khách quan, chân xác, còn đòi hỏi cả tính thời sự, cập nhật và khả năng lý
giải, phân tích, điều trần về sự thật nữa. Do vậy, ngay ở điểm này giữa phóng
sự văn học và phóng sự báo chí đã bắt đầu bộc lộ ranh giới. Trong khi đối với phóng
sự báo chí tính xác thực của thông tin được đặt ra một cách nghiêm ngặt thì phóng
sự văn học vẫn được phép có những khoảng “phi phỏng” (không xác định) lượng
thông tin. Lối nói phiếm chỉ trong định danh hoặc việc dùng từ, ngữ vô định
thường không mấy khi được chấp nhận ở phóng sự báo chí thì phóng sự văn học lại
coi đó như là một thủ pháp nghệ thuật nhằm mềm hóa thông tin, tránh cho người
đọc những cú sốc bất lợi về thực tại. Những đoạn mô tả cảnh sắc thiên nhiên,
trạng huống tâm lý, hành tung nhân vật... được tỉnh lược tối đa hoặc chỉ dựng
lên như cái nền của phóng sự báo chí thì phóng sự văn học đôi khi lại khai thác
chúng như một phương tiện hữu hiệu góp phần biểu đạt tư tưởng thẩm mỹ. Mặt
khác, sự kiện trong phóng sự báo chí càng mới mẻ, cập nhật, vấn đề đặt ra càng
nóng bỏng, bức xúc thì tính hấp dẫn càng cao, khả năng tác động đối với đời
sống xã hội càng lớn. Còn trong phóng sự văn học, sự kiện có ý nghĩa “châm ngòi
nổ” nhiều khi không nhất thiết phải theo sát dòng thời sự. Thậm chí có một độ
lùi thích hợp về không gian, thời gian càng giúp cho người viết có thể tái hiện
một cách sinh động, đầy đủ và soi sáng sự kiện từ nhiều chiều. Trong phóng sự
báo chí, sự thật cho dù có được “tạo dáng” đôi chút song nó vẫn phải mang đầy
đủ, nguyên dạng tầm vóc và cốt lõi của sự kiện bản thể.Tính thẩm mỹ của thông
tin nếu có được chủ yếu là do tự thân hiện thực mang lại chứ không phải do dụng
công tôn tạo của người viết. Trái lại, ở phóng sự văn học tuy vẫn lấy việc phản
ánh người thực, việc thực làm chủ đích nhưng ngoài chức năng đáp ứng nhu cầu
nhận thức cho công chúng, tác phẩm còn phải vươn tới yêu cầu giao tiếp thẩm mỹ,
định hướng thông tin. Vì vậy, không chỉ phương châm viết cho đúng, cho trúng mà
cả yêu cầu viết cho hay ở phóng sự văn học cũng không giống như phóng sự báo
chí. Bản lĩnh của nhà báo là lựa chọn tư thế, góc nhìn, thời điểm “phát hỏa”
sao cho “mũi tên sự kiện” trúng đích một cách nhanh nhất. Mọi vấn đề được mô
tả, tái hiện, lý giải, điều trần sao cho trực tiếp, khách quan và nổi bật nhất
để có thể tác động thẳng tới tri giác người đọc. Nhưng với nhà văn lại không
chỉ như thế. Mũi tên có thể trúng đích song những gì còn lại, những gì thay
đổi, những gì sẽ tái sinh cho một cuộc sống tốt đẹp sau đó mới là điều người
cầm bút cần đặt ra và hướng tới. Sự thật dẫu có được trình bày, diễn giải đầy
đủ, kỹ lưỡng đến mấy mà tính khái quát của vấn đề nêu ra chưa thực sự gắn với
những nỗi niềm nhân sinh thế sự, chưa thể coi nhà văn đã hoàn thành sứ mệnh của
mình. Nếu ở phóng sự báo chí, thông tin sự kiện được xem là sự sống còn của tác
phẩm thì ở phóng sự văn học tính thẩm mỹ của thông tin mới là tiêu chí cuối
cùng để đánh giá. Người làm phóng sự văn học không chỉ đi đến tận cùng sự thật
mà còn đòi hỏi phải làm sao cho những sự thật ấy vừa gây “nhức nhối trí tuệ”
vừa có khả năng rung động tâm hồn, thức tỉnh lương tri thời đại.
Như vậy, đủ thấy rằng sự khác nhau về tính chất thông
tin giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là một thực tế bắt nguồn từ mục
tiêu phản ánh, tái tạo hiện thực. Đây cũng chính là điểm mấu chốt dẫn đến sự
phân biệt chúng trên một số bình diện khác./.
Sự thật là yếu tố quan trọng hàng đầu của báo chí
Khách quan và chân thật là những khái niệm tương đối,
không thể định lượng kiểm tra một cách tuyệt đối. Trong nhiều trường hợp cụ
thể, khách quan hay không khách quan phụ thuộc vào khuynh hướng chính trị của
nhà báo của cơ quan báo chí. Nguyên tắc đó không tách khỏi sự chi phối bởi
nguyên tắc khách quan, chân thật của báo chí.
Vậy, trung thực thực nghĩa của nó là gì? Tại Từ điển
tiếng Việt, xác định rõ: “1. Ngay thẳng, thật thà - con người trung thực. 2. Đúng
với sự thực, không làm sai lạc đi. Báo cáo trung thực sự việc xảy ra. Tác phẩm
phản ánh trung thực cuộc sống”.
Hội Nhà báo Việt Nam cũng đã xây dựng bản: “Quy định
về đạo đức nghề nghiệp” bao gồm 9 điểm. Bao quát 9 điểm của bản Quy định với
tính tư tưởng chủ đạo vẫn là yếu tố trung thực. Tuy vậy, tính trung thực vẫn
được nêu rõ ở điểm 3: “Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật”. Rõ
vậy, cũng chẳng cần phải bàn luận thêm nữa.
Tính Đảng của với tư cách là khuynh hướng phát triển ở
trình độ cao của báo chí cách mạng không hề đối lập và mâu thuẫn với tính chân
thật. Với tính nhìn váo sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đòi hỏi báo chí
phản ánh mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thật, khách quan đúng
bản chất. Báo chí phát hiện và trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống tiêu
cực. Đồng thời báo chí cũng phát hiện và tích cực tuyên truyền cổ động cho các
nhân tố mới, các mô hình và các điển hình tiên tiến. Báo chí không chỉ có nhiệm
vụ truyền bá, phổ biến những quan điểm, tư tưởng chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước mà còn có nhiệm vụ phản ánh những tâm tư nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân, phản ánh những cách làm hay diến ra hàng ngày trên mọi miền
đất nước. Báo chí chân thực không chỉ phản ánh đúng từng sự việc cụ thể, từng
góc độ và thời điểm của cuộc đấu tranh xã hội mà còn vạch ra toàn bộ xu thế là
bản chất của cuộc đấu tranh đó.
Trong quá trình thâm nhập cuộc sống, nhà báo bộc lộ
thái độ của mình, báo chí bộc lộ khuynh hướng và đỉnh cao của nó là nguyên tắc
tính Đảng. Tính Đảng đòi hỏi nhà báo, cơ quan báo chí phản ánh trung thực khách
quan chân thật trong khi tiếp cận sự kiện, vấn đề với một thái độ xây dựng. cầu
thị cùng với toàn bộ xu thế phát triển của xã hội, với sự nghiệp đổi mới đang
diễn ra vừa khó khăn vừa thuận lợi, vừa có thành tựu vừa có vấp váp sai lầm. Sự
thật là đặc điểm đặc trưng là yêu cầu tồn tại của bản thân báo chí. Nó đạt đến
mức độ nào, trình độ nào, bị bóp méo, xuyên tạc hay bị lợi dụng, cắt xén là tùy
thuộc nhiều vào nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong thư Bác gửi Hội nghị thông tin, tuyên truyền và
báo chí toàn quốc tháng 2 năm 1948, có đoạn: “…đôi khi sơ suất, cẩu thả làm
giảm giá trị tờ báo hoặc làm mất lòng người xem. Thí dụ: Tờ báo nọ đăng bài có
đầu không đuôi. Tờ báo kia quên cả lịch sử trận Đống Đa ngày 5 tháng Giêng âm
lịch thì viết là 10 tháng 11. Tờ báo khác đăng tin vị linh mục X. hàng địch, kỳ
thực, vị ấy là người tốt”. Bác chỉ nêu khái quát một số trường hợp để làm ví dụ
cho bổn phận và trách nhiệm của người làm báo mà tính thiết yếu là sự trung
thực; phải trung thực với lịch sử khi viện dẫn; phải trung thực khi thông tin
sự việc; phải trung thực khi phản ánh các hiện tượng tiêu cực; phải rõ ràng,
minh bạch, không lấp lửng, không đầu không đuôi, dễ phản tác dụng… Bác Hồ của
chúng ta quả tâm huyết và thấu đáo biết chừng nào với vai trò của báo chí và
phẩm chất của người làm báo. Và, Người dạy chúng ta bằng chính việc làm của
mình là viết những bài báo chân thực có sức truyền cảm.
Rõ ràng rằng, lịch sử là lịch sử, không ai có thể “bẻ
cong” nó theo ý đồ của mình được. Nếu làm điều đó với lịch sử, tất yếu sẽ nhận
được sự phỉ báng của nhân dân, những người đã đổ máu và công sức để giành độc
lập dân tộc. Trung thực với sự kiện lịch sử chính là thước đo nhân cách và nhãn
quan chính trị của người làm báo vậy.
Để làm được điều đó khi đưa tin hoặc bình luận mỗi nhà
báo, mỗi cơ quan báo chí cần phản ánh đúng sự thật, tránh hư cấu, tránh điển
hình hóa nhân vật, khái quát hóa bối cảnh tình hình cụ thể, tránh bịa đặt những
chi tiết khi chưa kiểm tra, xác minh. Ngay cả khi lấy tin, trích dẫn các nguồn
tin của các báo, đài nước ngoài cũng cần phải thận trọng, chắt lọc kỹ không nên
dưa một cách vô thưởng vô phạt. Giữ vững lòng tin với nhân dân, với Đảng trong
mỗi bài viết, trên mỗi tấm ảnh của chính mình cũng là một yêu cầu quan trọng
nhằm đảm bảo tính khách quan, chân thật của báo chí.
Tiểu phẩm báo chí là gì?
I. Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, “tiểu phẩm” có nghĩa là:
- Bài báo ngắn về vấn đề thời sự có tính chất châm
biếm.
- Màn kịch ngắn mang tính chất hài hước, châm biếm
hoặc đả kích.
Theo quan niệm của Bùi Đình Khôi: “Tiểu
phẩm là một thể loại báo chí ngắn gọn, mang tính văn học, được diễn đạt bằng
một ngôn ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái
quát, mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước những sự việc
hoặc hiện tượng đó”.
Như vậy, có thể nói “tiểu phẩm” là tác phẩm được viết
bằng thể loại tản văn ngắn gọn, xinh xắn nhưng giàu chất trữ tình. Người Trung
Quốc xem các loại văn tự, bạt, ký, truyện, văn tế, thư tín... có ngôn ngữ trau
chuốt, tình cảm phong phú đều là văn tiểu phẩm. Người phương Tây xem văn tiểu
phẩm là thể loại văn xuôi nhỏ, kết cấu tự do, thiên về thể hiện các ấn tượng và
ý kiến cá nhân trước các sự việc và vấn đề cụ thể, không nhằm đưa ra cách lý
giải bao quát, điều cốt yếu là có cách kiến giải mới mẻ, gây ấn tượng sâu đậm.
Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết lý, có loại thiên về tiểu sử, phong cảnh,
phong tục, có loại nghiêng về phần văn học, có loại thiên về phổ biến khoa học,
có loại thuần tuý trữ tình. Phong cách chung của văn tiểu phẩm là tính hình
tượng, cô đọng, tính ngụ ý, ngữ điệu trò chuyện, tâm tình bộc lộ trực tiếp nhân
cách, cá tính của tác giả, để lại ấn tượng nhẹ nhàng, khoáng đạt.
Mẫu mực của thể loại văn tiểu phẩm ở phương Tây có thể
tìm thấy qua tập tiểu phẩm của Môngten (1533-1592), các tiểu phẩm của Vônte,
Điđơrô, Letxinh, Hecđơ, Punskin, Giecxen... ở phương Đông, văn tiểu phẩm có
truyền thống lâu đời nhưng có sự nở rộ của của chúng gắn liền với ý thức về
nhân cách, cá tính. Tiêu biểu cho thể loại văn tiểu phẩm phương Đông là Tiểu
phẩm của Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Chu Tư Thanh, Băng Tâm... ở Trung Quốc; hay “Vũ Trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ ở Việt Nam.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về tiểu phẩm như sau:
Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận - nghệ thuật, mang tính văn
học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một sự
kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện
quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
Trên thế giới, tiểu phẩm ra đời vào những năm 60 – 70
thế kỉ 18 với sự xuất hiện các bài viết của Nôvicốp và Giecxen trên báo chí
Nga.
Vào đầu thế kỉ 19 trên báo chí Pháp xuất hiện những
bài viết của cố đạo Guyliêng Giốp Phroa được nhiều người biết đến.
Ở Việt Nam, theo một số tài liệu nghiên cứu, các dạng
trào phúng và tiểu phẩm bắt đầu xuất hiện trên báo chí vào những năm đầu thế kỉ
20 với những tờ báo như Đông Dương tạp chí, Đông Tây, Duy Tân, Phong hoá, Vịt đực,
Con ong…Trên những tờ báo này đã xuất hiện nhiều bài viết có tính châm biếm,
hài hước, in những hí hoạ, biếm hoạ, thậm chí có những tờ báo chuyên in truyện
cười với những tác giả nổi tiếng như Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương.Tuy nhiên, phải đến thời kì Cách mạng dân chủ khi báo
chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển công khai, thể loại tiểu phẩm
mới thực sự phát triển. Cùng với thời gian, tiểu phẩm ngày càng phát triển và
hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của nền báo chí Việt Nam. Cùng với các thể loại báo chí
khác, tiểu phẩm báo chí góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của đất nứơc: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Ngày nay, nhiều phương tiện truyền thông đã ra đời và
ngày một phát triển có tính chất quy mô như vô tuyến truyền hình, phát thanh...
Tuỳ theo phương thức truyền thông của của mỗi loại hình mà các cách thể hiện
tiểu phẩm báo chí cũng có nhiều dạng khác nhau. Ngoài những hình thức truyền
thống là văn xuôi, thể trào phúng còn có trong ca dao, kịch ngắn, phim hài,
nhiếp ảnh, tranh biếm hoạ... và trong tương lai, trên báo chí sẽ xuất hiện
nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn nữa.
Cho tới nay, tuy còn nhiều quan niệm khác nhau về tiểu
phẩm, nhưng có thể nêu một khái niệm được nhiều người chấp nhận về tiểu phẩm
như sau: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận- nghệ thuật, mang
tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về
một sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả
thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
II. Đặc
trưng, đặc điểm của tiểu phẩm báo chí
1.Tính trào phúng:
Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô: trào phúng là một
phương pháp nghệ thuật đặc biệt, tái tạo lại hiện thực, khám phá ra nó là một
cái gì đó sai lệch, vô lý, không xác đáng ở bên trong (khía cạnh nội dung) bằng
cách hình tượng đáng cười, đáng phê phán, chế nhạo (khía cạnh hình thức).
Trào phúng không chỉ là nét đặc biệt của sáng tác văn
học, báo chí mà còn là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố
của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước... được sử
dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng... những cái tiêu cực, xấu xa,
lỗi thời, độc ác trong xã hội.
Trào phúng có nghĩa là dùng lời nói bóng bẩy, kín đáo
để mỉa mai kẻ khác. Trong tiểu phẩm báo chí, trào phúng gắn liền với phạm trù
mỹ học. Văn trào phúng bao gồm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc và âm
hưởng khác nhau, từ những mẩu chuyện tiếu lâm, các vở hài kịch đến thơ trào
phúng, thậm chí cả tiểu thuyết. Đó là sự bao trùm của tiếng cười trong lĩnh vực
văn học và báo chí. Từ lâu, người ta cũng đã quan tâm đến việc sắp xếp vị trí
của trào phúng như một dạng của tính trữ tình ở khía cạnh bộc lộ quan niệm bên
trong của con người. Thời kỳ Phục hưng, quan điểm này bị nghi ngờ khi đứng
trước cả tác phẩm lớn của Xetvantéx, Rabơle và đến thế kỷ 19, Hêghen còn cho
rằng trào phúng không mang tính sử thi và không phù hợp với tính trữ tình. Theo
L.T.Timophéep- trào phúng là phương diện đặc biệt của sáng tác văn học, gần gũi
với trữ tình sử thi và kịch trong trường hợp cụ thể.
Trào phúng là sự hài hước, diễu cợt, vạch ra cái lố bịch, kỳ khôi để răn đời nên tính hài hước của nó được biểu hiện bằng tiếng cười trào lộng. Đối tượng của tiếng cười là các hành vi, bản chất xấu xa của một cá nhân, một tầng lớp, thậm chí một giai cấp nào đó trong cộng đồng. Tính gây cười đặc biệt này chính là công cụ quan trọng để đả kích cái xấu còn tồn tại trong xã hội. Đồng thời nó cũng là thang thuốc bổ giúp mọi người quên đi bao lo toan, khó nhọc trong cuộc sống và cố gắng vươn lên để hoàn thiện bản thân mình.
Trào phúng là sự hài hước, diễu cợt, vạch ra cái lố bịch, kỳ khôi để răn đời nên tính hài hước của nó được biểu hiện bằng tiếng cười trào lộng. Đối tượng của tiếng cười là các hành vi, bản chất xấu xa của một cá nhân, một tầng lớp, thậm chí một giai cấp nào đó trong cộng đồng. Tính gây cười đặc biệt này chính là công cụ quan trọng để đả kích cái xấu còn tồn tại trong xã hội. Đồng thời nó cũng là thang thuốc bổ giúp mọi người quên đi bao lo toan, khó nhọc trong cuộc sống và cố gắng vươn lên để hoàn thiện bản thân mình.
2. Tính châm biếm:
Châm biếm - đả kích là một dạng đặc biệt trong sáng
tác văn học, báo chí, là dùng lời lẽ thâm thuý, vạch trần bản chất của đối
tượng, hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Châm biếm gắn liền với lẽ phải, yêu
cầu của châm biếm cũng cao hơn hài hước ở mức độ gay gắt của sự phê phán và ý
nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật. Về phương diện xã hội, phần lớn các
tác phẩm của châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc, những kẻ đi
ngược dòng lịch sử, những kẻ phản bội... chẳng hạn như các tác phẩm của Nguyễn
ái Quốc, Tú Mỡ, Thợ Rèn, X.cvantex, Xăntcôp Sedrin...
Các nhà văn, nhà thơ trào phúng thường có các tác phẩm
có giá trị đả kích bọn thống trị tàn bạo hà khắc, bọn xâm lược và bè lũ phản
bội, bán nước cầu vinh, phê phán, bài trừ những thói hư tật xấu, những tư tưởng
không chính thống, không lành mạnh trong xã hội.
“Châm biếm với những đề tài nội bộ thực hiện vai trò tích cực của mình bằng việc, khi tố cáo cái xấu, cái khuyết điểm, tác động lên sự vận động đi lên của xã hội”.
“Châm biếm với những đề tài nội bộ thực hiện vai trò tích cực của mình bằng việc, khi tố cáo cái xấu, cái khuyết điểm, tác động lên sự vận động đi lên của xã hội”.
Trong văn châm biếm thường chứa đựng các ẩn ý khiến kẻ
có “tật” phải “giật mình”, còn người đọc thì thích thú khi phát hiện ra khía
cạnh mà tác giả có ngụ ý nói đến. Đó là hai ý tưởng gặp nhau, tạo nên một ấn
tượng khó quên.
Đối với người dân, châm biếm hài hước nhiều khi có tác
dụng giáo dục một cách nhẹ nhàng, sâu xa mà không kém phần hiệu quả. Những đoạn
thơ, đoạn văn vừa góp phần baì trừ các tệ nạn xã hội, vừa có tính xây dựng.
Tính bài trừ này thể hiện rõ ở dụng ý phê phán trong cái hài hước biểu hiện
ngay ở nội dung tác phẩm. Châm biếm, hài hước còn có thể sử dụng các thủ thuật:
so sánh, ẩn dụ, ví von... để tạo nên tiếng cười sảng khoái, sâu sắc và mang lại
hiệu quả lớn.
3. Tính đả kích
Tiểu phẩm báo chí còn được sử dụng để đả kích, phê
phán và lên án gay gắt những hành vi xấu xa, bỉ ổi cũng như những hành động thù
địch của kẻ thù. Đối tượng bị đả kích có thể có tên tuổi, địa chỉ rõ ràng. Đả
kích có tác dụng rõ rệt là đánh gục đối phương về mặt tinh thần.
Trong tiểu phẩm báo chí, tính đả kích, hài hước được thể hiện bằng cái cười nghiêm khắc đối với cái xấu xa bị bóc trần khỏi vỏ bọc ngoài đẹp đẽ, tạo cho người đọc có thái độ đúng dắn với tiêu cực, cái xấu và dễ dàng nhận diện được nó trong những cái tưởng như rất thường trong cuộc sống.
Trong tiểu phẩm báo chí, tính đả kích, hài hước được thể hiện bằng cái cười nghiêm khắc đối với cái xấu xa bị bóc trần khỏi vỏ bọc ngoài đẹp đẽ, tạo cho người đọc có thái độ đúng dắn với tiêu cực, cái xấu và dễ dàng nhận diện được nó trong những cái tưởng như rất thường trong cuộc sống.
4. Cái hài trong Tiểu phẩm:
Trong các tiểu phẩm báo chí cái hài thuộc phạm trù mỹ
học, phản ánh hiện thực phổ biến của đời sống xã hội ở những cung bậc khác
nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà người ta có thê cảm nhận được.
Khi bàn về cái hài, S.Cneepxki - nhà văn, nhà tư tưởng Nga đã viết “Cái hài là
sự trống rỗng và sự vô nghĩa ở bên trong được che đậy bằng cái vỏ huênh hoang
tự cho rằng có nội dung và ý nghĩa thực sự”.
Cái hài thường gắn với cái buồn cười, nhưng không phải
cái buồn cười nào cũng có tính hài. Cái hài bao gồm ý nghĩa xã hội gắn liền với
sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là sự phê phán mang tính cảm xúc sáng
tạo tích cực có sức công phá mạnh mẽ đối với cái tiêu cực luôn tồn tại trong xã
hội. Sức mạnh phê phán vừa có tính phủ định, vừa mang tính khẳng định. Nó phủ
định cái xấu xa mang danh cái đẹp mà tính hài là cơ sở đặc trưng cái đẹp, vốn
là của hiện thực. Trong các tác phẩm báo chí tiếng cười có nhiều cung bậc và
những sắc thái khác nhau. “Người ta thường coi humuor, hài hước là cung
bậc đầu tiên và châm biếm là cung bậc cuối cùng”.
Trong hài hước, phép biện chứng của trí tưởng tượng
phóng khoáng hé mở cho thấy đằng sau cái tầm thường là vẻ cao quý, sau cái điên
rồ là sự anh minh. Trong châm biếm, đối tượng của tiếng cười là thói hư tật
xấu, vì thế nổi bật nên là giọng đả kích, phủ định, tố cáo dẫn đến tiếng cười
mang các sắc thái khác nhau: cười khinh bỉ, mỉa mai, chua chát...
Bởi vì trong humuor, phép biện chứng của trí tưởng
tượng, phóng khoáng hé mở cho ta thấy đằng sau cái tầm thường là cái cao quý,
sau cái điên rồ là cái anh minh, sau cái buồn cười là nỗi đau. Trái lại, trong
châm biếm, đối tượng của tiếng cười là thói hư, tật xấu, nên nổi bật lên là cái
giọng đả kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười trong các tác phẩm, tiểu phẩm còn
mang những sắc thái phong phú, da dạng: Cười khinh bỉ, cười thiện cảm, cười
nghiêm khắc, cười chua chát... Dĩ nhiên trong tác phẩm tiểu phẩm, cái hài dù ở
cung bậc nào cũng cần có ba yếu tố tạo thành.
Một là, bản chất mang tính hài hước của đối tượng mà
ai cũng có thể dễ dàng cảm nhận được.
Hai là, sự cường điệu của những đường nét, kích thước
và những liên hệ của chúng trong việc mô tả đối tượng.
Ba là, sự sắc bén, ý nhị, hóm hỉnh của người thể hiện
nhằm làm tăng thên hiệu quả của tiếng cười.
Trong các tác phẩm của tiểu phẩm báo chí còn có hài
hước, hay còn gọi là humuour- một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ
nhàng, chủ yếu gây cười, mua vui. Trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa, cân đối
giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lý tưởng và
thực tế, như dốt mà hay nói chữ, sợ vợ mà lên mặt làm chồng, trưởng giả học làm
sang.
Khác với nghịch dị, hài hước trong tiểu phẩm thường
biểu hiện tính chất kín đáo, thâm trầm, không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức
độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý. Vì thế mà hài hước trong các tác phẩm tiểu phẩm
biểu hiện sản phẩm trí tuệ, tài năng của tác giả. Đặc trưng của hài hước trong
tiểu phẩm còn bởi sự khéo léo, nhẹ nhàng của tác giả, vạch ra các mâu thuẫn,
tạo ra cái buồn cười, bất ngờ giúp công chúng nhận ra sự trớ trêu của tình
huống, mỉm cười mà phân tích đúng sai.
5. Tính hài kịch trong tác phẩm tiểu phẩm:
Như trên đã nói, chủ đề tư tưởng của tác phẩm tiểu
phẩm hướng vào sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối lập với lý tưởng xã hội
hoặc chuẩn mực đạo đức. Nhân vật, sự kiện, hiện tượng của hài kịch trong tiểu
phẩm thường không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên
ngoài của mình nên đã trở thành lố bịch. Các tính cách trong hài kịch của tác
phẩm tiểu phẩm thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng thái
tĩnh, nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch trong các tác
phẩm tiểu phẩm hết sức rộng lớn: từ những vấn đề chính trị - xã hội, đến những
thói hư, tật xấu trong cuộc sống hàng ngày. Trong tác phẩm tiểu phẩm tính hài
cũng có thể cho phép ở một góc độ nhất định sao cho nỗi đau không lấn át cái
cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính kịch.
Cái hài trong tiểu phẩm biến chất do nội dung cung bậc, tính chất của tiếng cười quyết định.
Cái hài trong tiểu phẩm biến chất do nội dung cung bậc, tính chất của tiếng cười quyết định.
Nguồn: langthangtrenmang
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)