Nhà phê bình văn học thiên tài
người Nga V.G. Bêlinski, khi phân tích cuốn “Ai có lỗi?“ - một tập sách
chính luận nổi tiếng của nhà văn, nhà tư tưởng lỗi lạc Herxen, đã viết như sau:
“Sức mạnh chủ yếu của tác giả không phải ở
trong sự sáng tạo, trong tính nghệ thuật, mà ở tư tưởng - một tư tưởng được cảm
nhận sâu sắc, mang tính ý thức và phát triền cao. Tầm vóc lớn của tư tưởng đó
chính là sức mạnh cơ bản của tài năng tác giả, còn phong cách nắm bắt các hiện
tượng thực tiên theo kiểu nghệ thuật - chỉ là sức mạnh thứ yếu, mang tính bổ
trợ của tài năng của ông ta”
Những dòng chữ ngắn gọn này của
Bêlinski, dù chỉ ở mức độ khái quát nhất, đã khắc hoạ khá rõ sự khác biệt về
phong cách biểu hiện trong báo chí và văn học nghệ thuật.
Ai cũng biết rằng báo chí và
văn học nghệ thuật đều dùng ngôn từ như là thành tố số một trong việc xây dựng
tác phẩm. Nhưng tính chất, đặc điểm và cách thức sử dụng ngôn từ ở chúng lại
khác xa nhau. Nguyên do là bởi báo chí và văn học là hai hình thái ý thức xã
hội hoàn toàn biệt lập đối với nhau.
Văn học
có chức năng cơ bản là chức năng thẩm mỹ. Nó phản ánh thực tế
bằng những hình tượng nghệ thuật vốn thoát thai từ cuộc sống nhưng lại in đậm
dấu ấn riêng về quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Nhà văn tiếp cận thực tiễn bằng
cách miêu tả cái cụ thề, cái cá nhân (các tính cách cá thể trong hoàn cảnh cá
thể), để rồi từ đó tạo dựng nên những hình ảnh điển hình (những tính cách điển
hình trong các hoàn cảnh điến hình).
Còn báo chí
có chức năng chủ yếu là thông tin. Nó phản ánh hiện thực thông
qua việc đề cập các sư kiện nóng hổi, những vấn đề bức xúc có thực của ngày hôm
nay đang được đông đảo công chúng quan tâm, chờ đợi. Nhà báo tiếp cận thực tiễn
bằng cách khảo sát những cái chung, cái phổ biến của các nhóm người (thậm chí
của các giai tầng xã hội) có liên quan rồi trên cơ sở ấy khám phá ra bản chất
của sư việc, hiện tượng.
Chính
các chức năng không giống nhau của văn học và báo chí đã khiến cho phong cách
biểu hiện về ngôn ngữ của chúng có một số nét khác biệt cơ bản
dưới đây:
1. Khác biệt về sự đánh giá
Sự đánh giá ở đây được hiểu là
việc thề hiện thái độ, tình cảm của người viết đối với những điều được phản ánh
trong tác phẩm. Trong văn học và trong báo chí, sự đánh giá khác nhau trước hết
về phương tiện và cách thức biểu đạt.
Đối với
văn chương, phạm trù đánh giá thường được bộc lộ dưới các hình ảnh tràn đầy cảm
xúc. Đó có thể là những hình ảnh gợi nỗi buồn tê tái, mà ẩn sâu
trong chúng là cái nhìn tiêu cực tràn đầy u uẩn, tuyệt vọng về thời cuộc:
Rặng liêu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn
buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới-mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Xuân Diệu)
Hoặc đó cũng có thế là những
hình ảnh bi thương hàm chứa sức tố cáo mạnh mẽ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép
gai đâm nát trời chiểu.
(Nguyễn Đình Thi)
Còn
trong báo chí, hoạt động đánh giá mang tính công khai, mạnh mẽ, bao trùm.Trong
quy trình sáng tạo của mình, báo chí liên tục tìm kiếm các phương tiện biểu đạt
giàu sắc thái đánh giá. Chính vì thế, kho tàng các phương tiện đánh giá của nó
phong phú và đa dạng hơn nhiều so với văn học. Trong ngôn ngữ báo chí, chúng ta
có thể gặp những nhóm từ vựng chuyên biệt chỉ phục vụ cho việc đánh giá (những nhóm từ kiểu này thường được xem là của riêng văn
phong báo chí, còn nếu chúng xuất hiện ở các văn phong khác thì đó là kết quả
của sự vay mượn). Chẳng hạn, để thể hiện sự đánh giá tích cực,
người ta lựa chọn những từ ngữ như: có nhiều triển vọng, tín hiệu đáng mừng,
chuyên biến tích cực, hợp tác hiệu quả, thành tựu nôi bật, bàn thắng thuyết
phục...; còn nếu muốn biểu lộ sự đánh giá tiêu cực, người ta có thể lựa
chọn các từ như: tiếp tay, câu kết, ngóc đầu, rùm beng, trả đũa, dính líu...
Bên cạnh đó, để phục vụ cho mục đích đánh giá, báo chí còn sử dụng cả nhiều
nhóm từ vựng khác như từ ngữ thông tục, từ ngữ hội thoại, từ ngữ vay mượn từ
tiếng nước ngoài, tiếng lóng, v,v. Rồi về mặt cú pháp, ngôn ngữ báo chí cũng
dùng một số kiểu cấu có cấu tạo đặc biệt,ví dụ:
- Câu có đề ngữ: “Hà Nội:
Còn đâu những khu phố cổ” (Lao động); “Lủ đồng bằng sông Cửu Long: Sao
chưa đến hẹn đã lên? “ (Báo An Giang); “Ma tuý: Quằn quại những nẻo về”
(Thương mại); “Bạn đọc trẻ: Bâng khuâng đứng giữa....; Bạn viết trẻ: Những
kẻ theo nghề bỏ cuộc chơi “ (Sinh viên Việt Nam), v.v.
- Câu được đảo ngữ: “Nối
nênh nghiệp rối “ (Văn nghệ trẻ); “ Lặng lẽ quá... liên hoan phim “
(Văn hoá); “Sôi nổi các cuộc tuyển quân” (Nhân dân); “Nhộn nhịp đường
lên biên giới “ (Lao động)...
Với những kiểu câu trên, thái
độ của tác giả đối với sự kiện hay vấn đề trở nên rõ ràng và ấn tượng hơn.
Song, có lẽ trong số các thủ pháp nhằm tạo sắc thái đánh giá cho ngôn
ngữ báo chí, nổi bật nhất vẫn là việc sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ,
hoán dụ, so sánh, chơi chữ, nói lái v.v… trong
đó không thể không kể đến ẩn dụ như một phương tiện đánh giá có tầm quan trọng
đặc biệt bởi tính phổ cập rộng rãi và tính hiệu quả cao của nó.
Ẩn dụ
báo chí đặt ra mục đích hàng đầu không phải là tạo hình tượng mà là đem lại
hiệu quả đánh giá: khẳng định hay là phủ định (với các biểu hiện
cụ thế như: sự hứng khởi, sự long trọng, niềm đam mê...,về một phía; và sự lên
án, sự chế nhạo, sự khinh miệt..., về một phía khác). Chính vì lẽ đó mà cả
nguồn gốc, cả đối tượng của ẩn dụ báo chí đều có những đặc trưng riêng rõ nét.
Như là nguyên tắc, tham dự vào quá trình ẩn dụ hoá thường là những khái niệm
được xem là quan trọng hơn cả về mọi phương diện như tư tưởng, chính trị, kinh
tế..., ví dụ: kim chỉ nam, hòn đá tảng, ánh sáng chỉ đường, vàng
trang, vàng đen, vựa lúa, bội thu, chảy máu chất xám, căn bệnh tham
nhũng...
Tương
tự, nguồn gốc của ẩn dụ cũng thường được lấy từ các lĩnh vực có uy tín xã hội
cao, được nhiều người quan tâm, và chỉ cần đề cập tới chúng đã tạo nên các hiệu
quả đánh giá (chẳng hạn với các thuật ngữ như: viêm, căn bệnh,
thẻ vàng, thẻ đỏ, phục kích, dọn đường, quả bom nô chậm, bẳn, oanh tạc,
đầu ra, đầu vào, v.v… nếu đưa vào các ngữ cảnh nhât định của giao tiếp báo
chí sẽ trở thành các ẩn dụ rất sinh động, đậm chất bình giá).
Dưới đây là một số ví dụ khá
điển hình về ẩn dụ báo chí:
- ... Ở VCK
World Cup 2002 tới đây đương nhiên sẽ có các tiền đạo đi bóng ngoằn ngoèo và
các “tiều phu” của các hàng phòng ngự sẽ tìm cách đốn gục. Khi ấy, “cầu
thủ thứ 23” sẽ phải rất cẩn thận mà huýt còi, kẻo huýt sai sẽ khốn khổ với
búa rìu dư luận (Thiếu niên tiền phong, số 59 / 2002);
- Ngay trong
10 phút đầu tiên của trận đấu, những con lốc màu da cam đã nhiều phen
khiến cho khung thành đội tuyển Pháp chao đảo. (Lao động);
- Họ cần phải
liên kết lại để xây đập ngăn chặn Lepen và phe cực hữu nắm quyền lãnh
đạo nước Pháp (Hà Nội mới, 16 / 5 / 2002);
- Cơn sốt
giá gas đến bao giờ mới hạ? (Thanh niên );
- Đồng euro
gây sóng gió tại Pháp ( Lao động, 24/5 /2001)...
Khảo cứu cho thấy, các ẩn dụ
báo chí thường là sản phẩm sáng tạo của cá nhân nên hay mang tính ngẫu hứng chủ
quan và gắn liền với ngữ cảnh hẹp. Nếu bị tách ra khỏi ngữ cảnh đó chúng chỉ
còn là những từ ngữ thông thường biểu đạt các ý nghĩa thông thường mà không còn
mang sắc thái biểu cảm - đánh giá nữa.
Nếu so
với ẩn dụ báo chí, ẩn dụ trong văn học nghệ thuật trước hết là các hình tượng,
ví dụ:
Phượng những tiếc cao, diều hay liệng
Hoa thì
hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn
Trãi)
- Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phân
ta đã tin nhau cả mười (Nguyễn Du)
Nghe rào rạt mười bốn triệu miền Nam đang tỉnh
giấc
Không! Ba mươi triệu kim
cương của thiên hà Tô quốc
Không ! Hàng nghìn triệu
ngôi sao sáng anh em đang
chiếm lĩnh bầu trời...
(Chế Lan Viên)
Ẩn dụ
trong văn học thường phản ánh cách nhìn của tập thể, xuất phát từ kiến thức
chung của tập thể cho nên chúng mang tính khách quan. Và ở mức độ nào đó, cả
tính tất yếu. Chẳng hạn những sự vật như hoa, vàng, ngọc, kim
cương… trong nhận
thức chung của xã hội là những thứ tốt đẹp, cao quý, vì thế chúng được dùng làm
ẩn dụ tu từ để chỉ cái tốt đẹp, cao quý.
Ẩn dụ trong văn học liên quan tới
mọi lĩnh vực và mọi đối tượng (chứ không chỉ dành cho một địa hạt hay một nhóm
đối tượng được “ưu tiên” nào đó
như trong báo chí). Môi trường hành chức của chúng thường là ngữ cảnh
lớn, không hiếm khi là toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể nguyên vẹn. Nếu chúng
ta đã từng đọc “Thép đã tôi thế đấy” (N. Ôtxtrôpxki), “Đôi mắt” (Nam Cao), “Cái lạt
“ (Vũ Thị Thường) chắc hắn đều nhận thấy rằng chỉ có thể hiểu được một cách đầy
đủ ý nghĩa ẩn dụ của các từ “thép”, “tôi”, “đôi mắt”, “cái lạt”
trong đầu đề của các tác phẩm này sau khi đã đọc xong chúng. “Thép đã tôi
thế đấy” hoàn toàn không viết về chuyện luyện gang thép mà miêu tả chặng
đường đấu tranh gian khổ, sự tôi luyện “chất thép” của thế hệ trẻ Xô Viết
anh hùng trong chiến đấu và lao động, trong lò lửa của cách mạng. “ Đôi
mắt” không phải là chuyện kể về đôi mắt của một con người cụ thể nào mà là
sự thể hiện quan niệm sống và sáng tác của người nghệ sĩ trong thời kì kháng
chiến chống Pháp. Còn “Cái lạt” được dùng theo nghĩa hình tượng, nghĩa
bổ sung (lạt mềm buộc chặt); đó chính là những thứ ơn huệ có khả năng trói buộc
người ta, làm cho người ta dễ bị sa vào lối sống “dĩ hoà vi quý”,
không còn can đảm đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực.
Qua phân tích các ví dụ có thể
nói, ẩn dụ trong văn học không nhất thiết phải mang sắc thái đánh
giá tích cực hay tiêu cực rõ nét như ẩn dụ báo chí vì nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng
phải hoàn thành là tạo hình tượng.
Không chỉ khác nhau về cách
thức và phương tiện biểu đạt, sự đánh giá trong ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ
văn học còn khác nhau cả về tính chất quan hệ của chủ thể sáng tạo đối với
chính sự đánh giá ấy.
Sự đánh
giá trong ngôn ngữ báo chí, cho dù nó được biểu hiện qua ẩn dụ hay bất kì
phương tiện nào khác, luôn mang tính xã hội sâu sắc. Vì theo quan niệm của chủ
thể phát ngôn, ý nghĩa xã hội của ngôn từ trong ngôn ngữ báo chí thể hiện ở chỗ
nó không chỉ thuộc về riêng tác giả mà còn thuộc về cả một nhóm xã hội, tổ
chức, liên minh, đảng phái, giai cấp mà có tư tưởng, đường lối, chính sách được
tờ báo truyền bá với tư cách “nhà
tuyên truyền và cố động tập thể”. Bất kì một từ
ngữ báo chí nào dường như cũng được “thiêng liêng hoá” nhờ uy tín của
tập thề (đảng phái hay liên minh) là cơ quan xuất bản hay biên tập ấn phẩm báo
chí. Đây chính là một trong những cội nguồn của sức mạnh và sự xác đáng của
ngôn từ trên trang báo.
Còn sự đánh giá trong ngôn ngữ
văn học luôn gắn liền với chủ thể sáng tạo ra tác phẩm, nghĩa là nó mang tính
cá thể rõ nét. Vì lao động nhà văn là lao động đơn lẻ, và cũng chỉ có anh ta là
người phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà
văn đứng trên lập trường của một nhóm hay một tổ chức xã hội nào đó thì cũng
không thể coi tác phẩm của anh ta là tiếng nói chính thức của nhóm hay tổ chức
xã hội ấy.
2. Khác biệt về vai trò cái
tôi tác giả
Như chúng ta đều biết, trong
hoạt động giao tiếp lời nói nào cũng là sản phẩm của người phát hướng về người
nhận với mục đích nhất định. Vì thế việc phân tích lời nói còn có thể tiến hành
từ các góc độ của hai loại đối tượng này.
Nếu so sánh các phong cách của
người phát (tức là “cái tôi” tác giả) trong ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ
văn học ta sẽ thấy chúng có nhiều điểm khác biệt quan trọng.
Nguyên
tắc cơ bản của ngôn ngữ báo chí, đồng thời cũng là cơ sở và đặc điểm cấu trúc
của nó là sự công khai, sự biểu đạt trực tiếp và thắng thắn “cái tôi” của tác giả. Đây có thể xem
là nét khác biệt khá nối bật giữa báo chí và văn học, là nơi tác giả không bao
giờ giao tiếp trực diện với độc giả. Trong phong cách báo chí, “cái tôi” đích thực của tác giả
luôn đàm thoại trực tiếp với độc giả. Ớ đây, mọi sự đánh giá, mọi niềm xúc cảm
đều của chính “cái tôi” này, (tất nhiên, suy cho cùng, thì những sự đánh
giá, những niềm cảm xúc ấy sẽ phải mang tính xã hội, vì tác giả của tác phẩm
báo chí bao giờ cũng đại diện cho một nhóm xã hội, một tổ chức đảng hay một
giai cấp; thế nhưng trước hết chúng vẫn phải đích thực là của chính tác giả, là
sản phẩm của trái tim và khối óc của anh ta, bởi nếu không, anh ta chỉ là công
cụ phát ngôn cho kẻ khác và không thể nào chinh phục được độc giả). Do vậy kết
cấu về ngôn từ trong báo chí thường in đậm chất xúc cảm cá nhân. Dĩ nhiên,
trong các thể loại khác nhau thì mức độ tham dự của “cái tôi” tác giả
cũng khác nhau. Có những loại thể báo chí mà ở đó chúng ta hầu như không thấy
sự hiện diện của tính cá thể (như thông báo tin tức, tin vắn, tin thời sự,..). Thế
nhưng nói chung, vai trò của “cái tôi” tác giả trong việc hình thành kết cấu ngôn ngữ báo chí
đáng kể tới mức có thể coi nó là cơ sở để phân loại các tác phẩm báo chí.
Trong
khi đó thì ngôn ngữ văn học lại thiên về tính ước lệ. Cái thế
giới do nhà văn sáng tạo nên là thế giới tưởng tượng, thế giới được cải biến và
đầy chất ước lệ. Tác giả, như là nguyên tắc, không đưa ra những lời đánh giá
trưc tiếp, thắng thắn đối với các nhân vật cũng như đối với ngôn từ và các hành
vi của họ. Anh ta cứ từ từ đưa độc giả tới những đánh giá mà anh ta chờ đợi một
cách gián tiếp. Sự can thiệp trực tiếp của tác giả vào văn bản, mặc dù là có
thể, nhưng không điển hình cho phong cách văn học nghệ thuật. Nó có thể là một
thủ pháp cố ý (và độc giả dễ dàng nhận thấy điều đó), hoặc giả là biểu hiện của
sư non yếu về bút pháp của tác giả. Tác phẩm báo chí luôn cảm thấy mình khác
lạ, “khó ở”' nếu phải khoác cái áo của văn xuôi nghệ thuật.
Ngôn ngữ báo chí hoàn toàn
không có tính ước lệ vốn đặc trưng cho văn xuôi nghệ thuật. Trong phong cách chức năng này, “cái tôi” tác giả thường thể hiện công khai (mức độ công khai
ấy, như đã nói ở trên, đương nhiên còn phụ thuộc vào thể loại và giọng điệu
trần thuật), nó không tách ra khỏi độc giả, không bị khách quan hoá như trong
văn học nghệ thuật là nơi nhân vật phải sống một cuộc sống độc lập, không dính
líu tới tác giả. Vì lẽ đó mà trong báo chí, tính cá nhân cũng
như cái nét riêng biệt của tác giả cùng sự phong phú về tư tưởng và tình cảm
của anh ta có ý nghĩa hết sức to lớn.
Có thế nói, chính vị thế của
tác giả xác định sự khác biệt cốt lõi, mang tính nguyên tắc, giữa ngôn ngữ văn
học và ngôn ngữ báo chí. Ngôn ngữ báo chí đậm chất của chủ quan, giàu tính đánh
giá (định danh và đánh giá), nó thường đơn diện, đơn thanh, còn ngôn ngữ văn
học thường bị khách quan hoá, đa diện, đa thanh.
Trong văn học nghệ thuật có thể
xảy ra sự đan xen một số tầng ngôn ngữ: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể
chuyện, ngôn ngữ các nhân vật; chúng tác động tương hỗ lẫn nhau một cách phức
tạp, đa dạng và tạo nên một phông ngôn từ phong phú , nhiều sắc màu xét trên
phương diện phong cách.
3. Tính chất khuôn mẫu
Còn trong báo chí chủ thể đích
thực của lời nói lại thường trùng với “cái tôi” của tác giả. Vì thế
trong ngôn ngữ báo chí chúng ta hầu như chỉ bắt gặp tích cực thỉ đua, khơi
dậy phong trào, đánh dấu những cái mốc mới, gánh vác những trách nhiệm cao cả…;
còn một bên là: với sự phẫn nộ sâu sắc, phải trả giá đắt, thất bại ê
chề, cực lực lên án, v.v. Còn các khuôn mẫu không mang sắc thái đánh giá
chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ; đó là các từ, ngữ thuộc về kiều thông tin
chính thức hay các tin vắn như: theo thông báo, trong không khí, theo nguồn
tin, dẫn lời, v.v.
(Ngôn ngữ hình ảnh nhiều khi vừa ước lệ, vừa đánh giá và cũng rất khuân mẫu) |
Ngôn ngữ văn học cũng không hề
xa lạ đối với tính khuôn mẫu. Nhưng tính chất và phương hướng của sự rập khuôn
ở đó bị chi phối trước hết bởi một hoàn cảnh là: Ngôn ngữ của văn học nghệ
thuật kỳ vọng vào sự tiếp nhận của mỗi cá nhân và xuất phát từ sự sản xuất ngôn
từ cũng mang tính cá nhân. Cả báo chí, cả văn học đều hướng về độc giả đại
chúng, nhưng báo chí thì hướng về quần chúng (hoặc các nhóm xã hội, các giai
cấp biệt lập nào đó) nói chung. Còn văn học lại hướng tới từng độc giả cụ thể,
và qua anh ta, tói tất cả mọi người. Tính cá thể hoá ngôn ngữ (cả về phương
diện người phát, cả về phương diện người nhận), rồi sự cụ thề hoá theo kiểu
hình tượng nghệ thuật đã tạo nên phẩm chất đặc thù riêng của văn chương nghệ
thuật. Nhưng tính cá thế hoá ngôn ngữ lại hoàn toàn không loại trừ sự rập khuôn
hoá, chỉ có điều sự rập khuôn ở đây phải tiếp nhận một hình thái phức tạp hơn.
Dễ dàng nhận thấy, trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật cái bị rập khuôn hoá không
phải là hình thức ngôn từ, mà là thủ pháp, phương thức, phong cách diễn đạt.
Tính cá thể hoá (tức là không rập khuôn) đạt được là nhờ sự phục hồi, thay đổi
các khuôn mẫu, bằng sự cải biến chúng một cách mạnh dạn và sáng tạo. Mặc dù
khuôn mẫu trong ngôn ngữ văn học không rõ nét như trong ngôn ngữ báo chí, nhưng
nó vẫn là phần cốt lõi của toàn bộ phông ngôn từ. Mỗi nhà văn tài năng, khi xây
dựng một phong cách riêng của mình (gồm tổng thể các thủ pháp, các phương thức
sử dụng ngôn từ) về thực chất, đã tạo nên một hệ thống các khuôn mẫu cá nhân
(dành cho riêng mình), mà sau đó, chúng có thể trở thành khuôn mẫu cho người
khác nếu nằm dưới ngòi bút của những người mô phỏng, bắt chước thiếu sáng tạo.
Trong văn học Việt Nam có không ít
những khuôn mẫu về sử dụng ngôn từ của cá nhân đáng được lưu danh hậu thế. Đó
là khuôn mẫu Hồ Xuân Hương, thể hiện trong việc khai thác những từ tượng thanh,
tượng hình “lắt léo” và ấn tượng, những cách nói lái, chơi chữ tài tình.
Đó là khuôn mẫu Tú Xương, nằm ở sự vận dụng những nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa
chính xác nhất của ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày. Đó là khuôn mẫu Tố Hữu, gắn
liền với việc dùng những hình ảnh tượng trưng vừa hiện thưc lại vừa lãng mạn.
Đó là khuôn mẫu Chế Lan Viên, hình thành từ sự hay dùng khả năng diễn đạt của
nhiều tầng nghĩa sâu xa của ngôn từ. Và còn nhiều nữa, những khuôn mẫu của Nam
Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tuân...
Như vậy sự rập khuôn trong ngôn
ngữ báo chí có khuynh hướng đánh giá và giao tiếp toàn xã hội, còn sự rập khuôn
trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật chỉ mang tính giao tiếp cá nhân. Một tờ báo,
trong không ít các thể loại bài của mình, công khai định hướng vào các khuôn
mẫu có tính chất tuyên truyền, cổ động, đánh giá, được kỳ vọng là sẽ còn lặp
lại nhiều lần (tái sử dụng) và có sức tác động lớn tới cảm xúc. Khuôn mẫu của
ngôn ngữ văn học trong trường hợp lý tưởng chỉ dành cho một lần sử dụng và thời
gian tồn tại của nó so với khuôn mẫu báo chí ngắn hơn nhiều, chịu sự “hao
mòn vô hình” nhanh hơn. Có lẽ đây chính là lý do khiến cho khuôn mẫu báo
chí dễ bị nhận biết hơn và có vai trò nổi bật hơn trong việc xây dựng tác phẩm.
Như vậy là chúng ta đã điểm qua
một số nét khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học ở ba
phương diện: sự đánh giá, vai trò “cái tôi” tác giả và tính khuôn mẫu.
Việc chỉ ra những nét khác biệt như vậy xuất phát từ mục đích góp phần khảng
định vị thế độc lập của báo chí và văn học vói tư cách là những loại hình sáng
tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cuộc sống con người; đồng thời giúp
cho các chủ thể sáng tạo, khi viết tác phẩm, nhận thức được rõ ràng và chuẩn
xác hơn cái phong cách ngôn ngữ mà mình đang thể hiện, để rồi từ đó, sử dụng
ngôn từ một cách chủ động và có hiệu quả. Tuy nhiên, do đây là vấn đề còn mói
mẻ cho nên những điều chúng tôi trình bày ở trên, vốn mới chỉ là kết quả của
những khảo sát bước đầu, chắc chắn còn nhiều khía cạnh cần được chỉnh lý, bổ
sung./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét