Họa sĩ Đông
Sơn vẽ ra Lý Toét vào đầu thập niên 1930, và tờ báo đầu tiên đăng tranh Lý
Toét, là Phong Hóa. Đó là hai điểm chính, về cụ Lý được dân chúng yêu chuộng
đặc biệt từ gần tám chục năm nay. Tìm đọc lại báo Ngày Nay Xuân 1940, cũ, mới
biết Nhất Linh có giải thích rõ ràng chi tiết về lý lịch của cụ, trong bài viết
“Lịch sử Lý Toét...”, Báo Xuân Ngày Nay 1940, tóm tắt như sau:ên Lý Toét ra đời
trước, rồi hình người Lý Toét mới ra đời sau.Năm 1930, trong báo Tứ Dân, người
đẻ ra “tên Lý Toét” lại là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu (chuyên viên thơ trào phúng của
Tự Lực Văn Đoàn), từ “đẻ ra” sáng tác bởi Nhất Linh. Họa sĩ Đông Sơn và bà Phụ
Nữ Thời Đàm đẻ ra “hình Lý Toét” sau. Sự tích là: Đông Sơn một hôm đang xem báo
Phụ Nữ, vẽ nghịch một ngườì nhà quê, thấy hay hay nên xé ra vứt vào ô kéo, chưa
biết để làm gì. “Quý vị ơi! Nhìn hình dưới đây đi! Nó đấy, chính nó đấy, mảnh
giấy nhật trình có chân dung “thủy tổ” của tất cả các Lý Toét sau này đấy!”:
Đúng
là không có bà Phụ Nữ Thời Đàm thì không có Lý Toét,
Nhất Linh nói chí lý thật!
Trên bức hình đó Lý Toét trẻ hơn sau này nhiều, đã được mặc áo dài khăn đóng,
như mọi cụ già thời đó. Lại có đủ cả râu ria, búi tóc, cụ xách thêm đôi dép da
gia định và cắp cái ô đen: Cá tính được định hình. Cụ thường xách dép lên, đi đất,
vì ngại chóng hỏng đôi dép cũ. Cái ô cũng ít khi mở ra, cụ để dành đánh chó và
đeo lên vai cho oai. Nhưng chúng cũng làm khổ cụ, vì cứ bị tụi trộm nhỏ nhít
đặt vào tầm ngắm, quấy phá luôn luôn. Nào dép, nào ô, nào khăn cứ bị trộm rình!
Chắc
các bạn còn nhớ: Bắt đầu từ Phong Hóa số 14, ra ngày 2/9/1932 chủ bút mới là
Nguyễn Tường Tam. Cùng các em là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và các bạn như Tú
Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Khái Hưng Trần Khánh Giư... mới phụ trách tờ Phong Hóa. Ngay
trong số 14 này, ta bắt gặp Đông Sơn đưa hình cụ (chưa có tên) về Hà Nội trên
một chuyến xe đò đông như nêm cối (hình dưới). Các bạn có nhìn thấy cụ ngồi
trên mui xe ngay trên đầu tài xế đó không? Họa sĩ Đông Sơn thật hóm, giấu kỹ
chẳng cho ai biết tin gì cả! Nhưng lòi đuôi! Tuy nhiên, rất có thể chính ông
cũng không biết là mình đã cho cụ về thành hôm đó, trên chiếc xe đò đó! (Mà
này, nhỡ ông vẽ mà không biết là có cụ trốn trên mui đó thì oan cho ông nhỉ!?)
Nhất
Linh còn kể là Lý Toét ra mắt độc giả ngay từ số Phong Hóa 14, nhưng còn ngơ ngác
vì chưa có tên. Sau đó Đông Sơn dính thêm cái tên Lý Toét vào hình vẽ, thế là
Phong Hóa có trong tay một nhân vật hý họa hoàn chỉnh. Lý Toét nom thật có
duyên:
Lần
đầu tiên Tứ Ly đem Lý Toét tên (không có hình), lên báo Phong Hóa trong số 35,
trong bài viết “Cuộc Chợ Phiên của Phong Hóa tổ chức”. Lúc đó, Lý Toét hình,
không tên, chỉ dùng để trang trí cho mục Vui Cười mà thôi:
Tới
số 48, năm 1933, Phong Hóa có tranh “Lý Toét ra tỉnh” thứ nhất. Đó là lần đầu
cụ Lý có đủ tên và hình, cùng cái dáng lom khom hay đặt câu hỏi lạ lùng:
Thế
rồi tới Phong Hóa số 59, bức vẽ “Lý Toét ra tỉnh” thứ hai, do Đông Sơn vẽ dưới
đây, (ký tên chữ nho) chiếm ngay trang bìa:
Đông
Sơn Nhất Linh biết rằng nhân vật này sẽ chinh phục độc giả toàn quốc! Quả như
vậy, Lý Toét đã làm mưa làm gió trên văn đàn nước ta trong suốt thập niên 1930.
Trước hết, về cá nhân Lý Toét, tính chất tổng quát được mọi người cùng chấp
nhận bất thành văn, là Lý Toét là một ông già nhà quê, có chức phận trong làng,
chức Lý trưởng, nên được goi là Lý, mắt bị bệnh đau mắt hột từ bé, thành ra nó cứ kèm nhèm, như viền vải tây đỏ, ta
gọi là mắt toét. Nhập hai chữ Lý và Toét vào nhau thành tên luôn, chứ Lý Toét
không phải là tên cúng cơm, bố mẹ đặt cho.
Lý
Toét nghèo, sống ở thôn quê, chưa từng được thấy những thứ văn minh ngoài phố
do người Pháp mang lại. Lý biết đọc chữ quốc ngữ, biết ít chữ nôm, chữ nho,
nhưng không hiểu tiếng Pháp, nên có nhiều phen không thông về chữ nghĩa, nhầm
chữ nọ sang chữ kia tí chút. Vì nghèo nên Lý Toét tham ăn, lại nghiện rượu, nên
ích kỷ, chỉ muốn mình được phần to, thêm nữa, không hiểu gì về vệ sinh, ăn ở dơ
bẩn, nên cả tin, sợ hãi đủ mọi thứ. Lý Toét rât mê tín, thờ đủ mọi loại thần
thánh, từ con cóc sành trên bể nước ngoài vườn hoa, đến con hổ sống trong
chuồng Vườn Bách Thú...
Vợ
con ở quê rất lếch thếch. Lý Toét có một cô con gái lớn tên là Ba Vành, cô này
xưa bỏ nhà ra đi, rồi lấy tây. Thỉnh thoảng cụ Lý có xuống vùng mỏ thăm con
gái, báo Xuân Phong Hóa, số 85 tường thuật thế. Cô có con, thỉnh thoảng con bị
sài đẹn cũng mang vào bệnh viện chữa, làm cụ Lý đi tìm thăm thật khốn khổ.
Phong Hóa có tranh chân dung của cô, cô mặc áo tân thời, nom cũng đẹp ra phết
(khi trước còn ở dưới quê thì vẫn vận áo tứ thân).
Nhân
vật ảo Lý Toét với đầy đủ tính cách như vậy, được họa sĩ Đông Sơn sáng tác ra.
Nhưng cha đẻ của Lý Toét đã rất hào phóng không giữ tác phẩm cho riêng mình, mà
rủ tất cả mọi người cùng tham dự vẽ Lý Toét! Do đó, cùng với Đông Sơn Nhất
Linh, các họa sĩ của Phong Hóa nhẩy vào vẽ Lý Toét với đầy hứng thú trong các
tranh vui của báo Phong Hóa. Thế là: Cuộc Vui “Vẽ Lý Toét” bắt đầu!
Mỗi
họa sĩ anh tài của Phong Hóa vẽ ra một Lý Toét dung mạo khác hẳn nhau, nhưng
cùng tính cách, vẫn nhận ra được. Độc giả có thể ngắm các Lý Toét khác nhau
trong hình trên của các họa sĩ Đông Sơn, Nhất Sách, Tô Tử tức Ái Mỹ Tô Ngọc
Vân, Lemur tức Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần Bình Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức
Trần Quang Trân, Trần An...
Nhân
vật Lý Toét với rất nhiều tranh chân dung đó, đã nổi lên vững vàng thân ái như
một vì sao mới mọc trong lòng độc giả báo Phong Hóa. Sau này có thêm danh họa
Nguyễn Gia Trí (lúc đó mới ra trường) tức Rigt, tức Gtri, cùng nhiều người
khác, kể cả Lê Ta Thế Lữ cùng vẽ chân dung Lý Toét (vẽ chữ số thành hình cụ
Lý).
Nhưng
ngắm tranh Lý Toét lâu, ta thấy cụ có vẻ hơi... cô độc, thiếu bạn. Và việc phải
đến, đã đến: Xã Xệ xuất hiện. Nhất Linh gọi đó là do tự nhiên phải thế. Xã Xệ
là một nhân vật bằng vai phải lứa với Lý Toét. Xã Xệ béo ịt, thấp lè tè, đầu
trọc lông lốc, còn độc một sơi tóc quăn xoắn ốc trên đỉnh. Hình ảnh Xã Xệ hoàn
toàn đối chọi với Lý Toét gầy đét và cao lênh khênh. Xã ra đời để đấu láo với
Lý, cãi chầy cãi cối với Lý, chung buồn chung vui với Lý... Ngớ ngẩn, lẩn thẩn
sống cuộc đời mới của dân nô lệ mất nước, dưới sự bảo hộ của mẫu quốc Phờ Lăng
Xa cùng Lý.
Nhân
vật ảo Lý Toét với đầy đủ tính cách như vậy, được họa sĩ Đông Sơn sáng tác ra.
Nhưng cha đẻ của Lý Toét đã rất hào phóng không giữ tác phẩm cho riêng mình, mà
rủ tất cả mọi người cùng tham dự vẽ Lý Toét! Do đó, cùng với Đông Sơn Nhất
Linh, các họa sĩ của Phong Hóa nhẩy vào vẽ Lý Toét với đầy hứng thú trong các
tranh vui của báo Phong Hóa. Thế là: Cuộc Vui “Vẽ Lý Toét” bắt đầu!
Mỗi
họa sĩ anh tài của Phong Hóa vẽ ra một Lý Toét dung mạo khác hẳn nhau, nhưng
cùng tính cách, vẫn nhận ra được. Độc giả có thể ngắm các Lý Toét khác nhau
trong hình trên của các họa sĩ Đông Sơn, Nhất Sách, Tô Tử tức Ái Mỹ Tô Ngọc
Vân, Lemur tức Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần Bình Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức
Trần Quang Trân, Trần An...
Nhân
vật Lý Toét với rất nhiều tranh chân dung đó, đã nổi lên vững vàng thân ái như
một vì sao mới mọc trong lòng độc giả báo Phong Hóa. Sau này có thêm danh họa
Nguyễn Gia Trí (lúc đó mới ra trường) tức Rigt, tức Gtri, cùng nhiều người
khác, kể cả Lê Ta Thế Lữ cùng vẽ chân dung Lý Toét (vẽ chữ số thành hình cụ
Lý).
Nhưng
ngắm tranh Lý Toét lâu, ta thấy cụ có vẻ hơi... cô độc, thiếu bạn. Và việc phải
đến, đã đến: Xã Xệ xuất hiện. Nhất Linh gọi đó là do tự nhiên phải thế. Xã Xệ
là một nhân vật bằng vai phải lứa với Lý Toét. Xã Xệ béo ịt, thấp lè tè, đầu
trọc lông lốc, còn độc một sơi tóc quăn xoắn ốc trên đỉnh. Hình ảnh Xã Xệ hoàn
toàn đối chọi với Lý Toét gầy đét và cao lênh khênh. Xã ra đời để đấu láo với
Lý, cãi chầy cãi cối với Lý, chung buồn chung vui với Lý... Ngớ ngẩn, lẩn thẩn
sống cuộc đời mới của dân nô lệ mất nước, dưới sự bảo hộ của mẫu quốc Phờ Lăng
Xa cùng Lý.
Cha
đẻ của Xã Xệ là họa sĩ Bút Sơn, từ Saigon gửi
tranh vẽ ra Hà Nội. Tôi nghĩ vị này là một độc giả yêu quý Phong Hóa, nên tạo
ra nhân vật Xã Xệ đối kháng với Lý Toét. Ông lấy hiệu Bút Sơn để nhái Đông Sơn.
Nhưng Nhất Linh đến tận khi mất, vẫn chưa biết tên thật của Bút Sơn. Trên tờ di
cảo “Đời làm báo” ghi tất cả tên và bút hiệu các cộng sự viên, trong cũng như
ngoài Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh có hàng chữ sau: Bút Sơn ở Saigon (Người
đẻ ra Xã Xệ), tên thật chưa biết. Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các
bạn, cho biết tên thật.
Hiện
nay chúng tôi được biết tên thật họa sĩ Bút Sơn là Lê Minh Đức. “Theo nhà báo
nhà thơ trào phúng Tú Kềnh viết trên Báo Bình Minh Xuân Mậu Thân 1968 xuất bản
ở Saigon thì: Vào năm 1936 báo Phong Hóa, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, ở Hà Nội, có tổ
chức cuộc thi vẽ tranh hài hước, họa sĩ chuyên vẽ tranh hài hước Bút Sơn Lê
Minh Ðức ở Saigòn vẽ một bức tranh gửi ra Bắc dự thi” (1).
Thật
ra, lần đầu tiên Xã Xệ xuất hiện trong tranh Bút Sơn là ngày 16/3/1934, trên
báo Phong Hóa số 89. Xã Xệ đã được đón tiếp thật nồng hậu. Xã cùng Lý lên ngay
trang bìa của báo. Dưới đây là bức tranh trên Phong Hóa, Xã Xệ ra mắt toàn dân
An Nam, cõi Đông Pháp, với lối lý luận hạng nhất:
Vậy
là báo Phong Hóa đã tạo dựng được cặp đôi hý họa Lý Toét, Xã Xệ, mang rất nhiều
“đặc tính dân tộc”, đi vào lịch sử văn học Việt Nam:
Tranh
Lý Toét Xã Xệ không của riêng ai, thật là thú vị. Mỗi bức tranh có khi là một
tấm, có khi là một loạt nhiều tấm như phim hoạt họa, với lời chú giải ngắn gọn
hoặc vài câu thoại, chính là một câu chuyện nhỏ, nhiều khi rất thâm trầm, nhiều
khi mộc mạc.... Ai có một vài ý nghĩ chủ đạo là có thể vẽ ra một tranh hay, nếu
không biết vẽ thì viết thành truyện cười Lý Toét cũng không kém phần dí
dỏm.Trong khi đó, nhờ những cuộc thi tranh khôi hài của Phong Hóa, nhiều họa sĩ
bên ngoài tòa soạn đã tới vẽ cho Phong Hóa như NG9, HKB, DLAN, Trần An, 2TTG,
Mạnh Quỳnh.... và rất nhiều người không chuyên cũng vẽ. Thêm nữa, các họa sĩ
còn mang hình ảnh Lý Toét Xã Xệ phổ biến, nhân rộng ra khắp các báo thời bấy
giờ, từ ngoài Bắc tới trong Trung, trong Nam. Họa sĩ thích vẽ, người thường
thích kể chuyện, báo nào có Lý Xã thì có nhiều người đọc. Đến nỗi cặp đôi này
đã trở thành những nhân vật để quảng cáo! Có những bài quảng cáo thuốc, quảng
cáo rượu của Lý Toét... đăng ngay trên Phong Hóa, Ngày Nay rất nhiều lần.
Để
cạnh tranh, báo Thanh Niên số 2, ra ngày 27/1/34 cho ra đời “Xã Dù”một anh em
họ hàng với Lý Toét. Nhưng tiếng tăm của Xã Dù quá lu mờ, nay không ai còn
biết, nhớ đến (bài Cuộc Điểm Báo, Phong Hóa số 84).
Như
vậy là Đông Sơn Nhất Linh đã dựng ra được một phong trào có vô số họa sĩ trong,
ngoài tòa báo, cùng độc giả “dấn thân”, đua nhau sáng tác ra vô số tranh Lý
Toét Xã Xệ kể chuyện vui đùa!
Còn
gì thú vị hơn!
Từ
đó, Lý Toét Xã Xệ xuất hiện đều đặn trên báo Phong Hóa và Ngày Nay, qua những
truyện vui lý sự cù nhầy. Thỉnh thoảng Lý Toét có bài viết riêng như “Điều
thỉnh cầu của Lý Toét”(Phong Hóa số 68), bài thơ Vợ Lý Toét Khuyên Chồng, trong
mục Dòng Nước Ngược, thơ trào phúng của Tú Mỡ, rồi Lý Toét Trả Lời, Lý Sự Cùn
viết... Lâu lâu báo có đăng Lý Toét Phú, Xã Xệ Phú, Ván Cờ Lý Toét, cả Văn Tế
Lý Toét (của Đỗ Đức Thu, làm trước, phòng khi...), ...
Nhưng
nhiều nhất, được chú ý nhất, vẫn là những bức tranh Lý Toét Xã Xệ, với những
cảnh trông thấy, gặp thấy trên tỉnh. Có nhiều kỳ báo Phong Hóa, Ngày Nay có cả
năm, bảy tranh Lý Xã trên cùng một số báo. Tranh nào cũng kể những chuyện ngây
ngô, những suy nghĩ, suy luận chéo cẳng ngỗng, những hiểu lầm về ngôn ngữ tây
ta tầu... Những câu chuyện vui vu vơ, vô tội này, ngày một lan rộng, ngày một
thu hút. Những tính tình xấu xí, gàn bướng, cù nhầy, đáng cười... của người đời
được diễn tả, phô bầy dưới hình thức khôi hài rất duyên, rất khéo... Trong đó,
Lý, Xã rất “nghệ”, với những phản ứng không giống ai, diễn tả được biết bao
khía cạnh khác nhau của cuộc sống... Quý vị độc giả đừng tưởng hai cụ nhà quê
này luôn luôn khù khờ, trái lại, có khi rất láu đấy! Và trong nhiều tranh các
cụ lý luận hay đáo để! mời các bạn xem tranh Lý toét trả lời quan tòa tây:
Khi
Lý Toét phải ra tòa trả lời tội gửi thư với tem đã đóng dấu. Cụ Lý trả lời: “Lần
nào nhận thư của con gái, là cô Ba Vành, gửi về cũng thấy tem đã đóng dấu”.
Đúng
quá chứ!
Cặp
bài trùng Lý Xã của Phong Hóa Ngày Nay dần dần trở nên vô cùng nổi tiếng, được
sự ủng hộ triệt để của quốc dân, từ trẻ con tới người lớn. Người coi tranh, mê
tranh mỗi ngày một nhiều, tạo ra một hiện tượng xã hội chưa từng có. Năm 1933,
Georges Mignon, trong Nụ Cười Tân Á, khen ngợi Lý Toét của Phong Hóa (2). Và
năm 2007, tại Mỹ có bài nghiên cứu của George Dutton: Lý Toét in the City (3),…
Còn ở Việt Nam thì tới ngày nay vẫn có lai rai bài viết, khảo cứu, kịch,
chèo... về Lý Toét.Ròng rã từ 1932 tới cuối năm 1940, tranh Lý Toét là những cú
đâm xầm vào đời sống văn minh mới, do “mẫu quốc” mang tới, của hai cụ nhà quê
cổ hủ “đẫm đặc dân tộc tính”... Đó cũng là lúc dân ta đang gặp phải cái “chạm
trán tóe lửa” của hai nền văn hóa Đông Tây. Như bà văn sĩ Pearl Buck (giải
thưởng Nobel về văn chương 1938) trong truyện ngắn ‘Bà Mẹ Già”, Huyền Hà dịch,
Ngày Nay số 200, 1940, kể chuyện bên Tầu: Cô con dâu đi du học về, trong bữa
cơm đại gia đình, đã: “hét inh lên vì sợ, khi thấy bà cụ mẹ chồng đưa đôi đũa
đã liếm nghiêm chỉnh thật sạch trước, chọc vào đĩa thức ăn chung của cả nhà”.
Đồng
thời trong những bức tranh nhỏ Lý Xã, các ý tưởng được đào sâu dần, nói lên
được nhiều điều muốn nói. Người đọc ngày một thấm thía về thân phận người dân
nhược tiểu mất nước, khi đa số dân chúng còn chưa được giáo dục, vô kỷ luật,
hay sợ hãi, mê tín, và cam chịu tủi nhục dưới ách nô lệ của Pháp. Những bức
tranh hý họa nhẹ nhàng hóm hỉnh đó phơi bầy dần dần những thói hư tật xấu của
dân ta. Có người cho rằng báo PH NN đã bôi xấu người nhà quê! Không! ta phải
hiểu rằng nếu dân ta còn nghèo đói, vô học, sống khổ sở như thế, chịu bao nhiêu
bóc lột đè nén như thế, thì lẽ dĩ nhiên hủ lậu mê tín phải sinh ra tham lam,
ích kỷ... Nhưng tới đó thì chúng ta phải tự hỏi: “Phải làm gì đây?”
Đó
là chủ ý của Tự Lực Văn Đoàn: dùng văn chương, báo chí để vận động cải tạo xã
hội.
Trong
bài Trả lời Tân Xã Hội, Hoàng Đạo viết trên Ngày Nay số 30, năm 1936: “Ông sẽ
phải công nhận như chúng tôi, là dân chúng - hầu hết là dân quê - chỉ biết mình
khổ cực, đói rét, chứ chưa biết đường tự bênh vực lấy mình. Vậy công việc tối
quan trọng của ta, của chúng tôi, của ông, là làm thế nào cho họ hiểu hết quyền
lợi nghĩa vụ của họ. Công cuộc to tát không phải một ngày mà nên: công cuộc ấy
có thành cũng nhờ một phần lớn ở sự tự do báo chí và tự do kết đoàn”(4).
Thực
vậy, muốn dân chúng hiểu nghĩa vụ và quyền lợi của họ, thì việc đầu tiên là
phải thu hút dân chúng bằng báo chí, phải tìm cách làm dân muốn nghe, thích
nghe ta nói. Vậy trước hết, hãy xét lại chính mình. Hẳn trước khi thành người
thành thị, ai chẳng có gốc gác nhà quê, không là ta, thì bố mẹ ông bà...ta, đã
từng ngớ ngẩn “nhà quê lên tỉnh” như thế. Mà người Việt nào cũng có quê, như
Nguyễn Trãi quê Nhị Khê, Nguyễn Du quê Tiên Điền, Hồ Xuân Hương quê Nghi Tàm,
Cao Bá Quát quê Phú Thị... Mồ mả các cụ tổ tiên chúng ta đều còn ngay ở giữa
những cách đồng lúa lầy lội đó, chứ đâu? Mà cũng những nơi nhà quê đó, có kho
tàng vốn cổ ai cũng say mê, đó là những tranh khôi hài, các chuyện cười, chuyện
diễu, chuyện tiếu lâm, phóng đại, nói khoác... Chuyện được truyền khẩu từ ngàn
xưa, từ các bác dân quê như Ba Giai, Tú Xuất ngoài Bắc, tới bác Ba Phi trong
Nam, cùng các vị trí thức không theo lề lối quan trường như các Trạng, Trạng
Quỳnh, Trạng Lợn,... rất nhiều. Những chuyện đối đáp với sứ Tầu của các vị
thiền sư từ hơn nghìn năm trước, hay giai thoại những câu đối đáp giữa Chiêu
Hổ, Hồ Xuân Hương ai mà chẳng mê. Và các tranh cổ ngộ nghĩnh được bán trong
những phiên chợ quê, chợ Tết, như Đám cưới chuột, Vinh quy, Đánh ghen, Hứng dừa...
của làng Đông Hồ, ai mà chẳng thích?
Ta
hãy ngắm lại hai tấm tranh Đông Hồ dưới đây:
Trong
khi đó, người đầu đàn của Tự Lực văn đoàn Nhất Linh Đông Sơn là một họa sĩ. Các
thành viên khác như Thế Lữ, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam... cũng có thú vẽ
tranh không phải thường (nếu bạn đọc tinh ý thỉnh thoảng có thể bắt gặp trong
Phong Hóa hoặc Ngày Nay những bức vẽ rất đẹp ký tên Khái Hưng, Tứ Ly, ... Đặc
biệt, Ngày Nay số 198, xuân 1940, có in tranh vẽ của nhiều thành viên Tự Lực
Văn Đoàn: Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam). Với tinh thần mỹ
thuật từ bản chất của ban biên tập như thế, hai báo Phong Hóa, Ngày Nay sử dụng
tranh ảnh trang trí rất nhiều, luôn luôn có họa sĩ nhà nghề làm việc minh họa.
Những họa sĩ lớp mới này được học rất bài bản, họ học được kỹ thuật hội họa Tây
phương tại trường Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội (khóa đầu của trường tốt
nghiệp năm 1930). Vì vậy, họ sử dụng rất thông thạo kỹ thuật hý họa kiểu tây
phương, để đùa rỡn các ông dân biểu, các quan thượng thư ...với mục đích sửa
lưng các ông, xin các ông nhớ đến dân đến nước và làm cho công chúng hiểu đời
sống chính trị hơn... Những năm sau có thêm Bang Bạnh và Ba Ếch trong thể giới
hoạt kê đó, giúp các họa sĩ tạo được nhiều màu sắc, nhiều khía cạnh sâu xa hơn trước.
Tuy nhiên, hai nhân vật này không được yêu thích bằng Lý Xã.
Cũng
với lý tưởng làm thay đổi bộ mặt xã hội, dân sinh, TLVĐ và các họa sĩ, kiến
trúc sư đã giới thiệu cách sống mới hợp vệ sinh, kiểu nhà mới Ánh Sáng và nhất
là việc sáng tác áo dài kiểu mới Lemur cho phụ nữ, một thành công vang dội, tới
ngày nay “áo dài”còn chịu nhiều ảnh hưởng.
Trong
khi đó Tứ Ly Hoàng Đạo viết hàng loạt bài trên Phong Hóa Ngày Nay như Trước
Vành Móng Ngựa, Bùn Lầy Nước Đọng, Công Dân Giáo Dục, Có Cứng Mới Đứng Đầu Gió (ký
tên Tường Vân)... kể chuyện trong tòa án, giải nghĩa nhiệm vụ công dân, chỉ dẫn
cho dân chúng về pháp luật, để họ hiểu và biết cách sống, cách cư sử cho khỏi
bị ép buộc vô lý, và cũng để tờ báo mưu tính những cải cách về xã hội.
(Trong
bài viết ngắn này, chúng tôi không nói tới sự nghiệp văn chương lừng lẫy của
các văn hào, thi bá, thành viên Tự Lực Văn Đoàn, mà chỉ xin nhắc thêm rằng các
tiểu thuyết, thơ mới, kịch nói...của các vị, đã làm say mê bao thế hệ người
Việt, đã thay đổi cách viết, cách sử dụng chữ Việt, văn chương Việt, đã trợ
giúp rất nhiều cho công việc cải tạo xã hội về mọi mặt).
Ngắm
lại những bức tranh Lý Toét thật lý thú, báo Phong Hóa Ngày Nay có khá nhiều:
gần 1000 tấm. Hai khía cạnh mỹ thuật và khôi hài, đã trộn vào nhau rất ăn ý.
Chúng là một sáng tạo tài tình gồm cả đông lẫn tây, cả xưa lẫn nay, trong suốt
một thập niên đã nở rộ đến không ngờ: Phong Hóa và Ngày Nay càng ngày càng càng
đông người đọc, đã trở thành một tờ báo không đối thủ trong làng báo lúc đó, mà
cũng có lẽ cả lịch sử báo chí Việt Nam xưa nay. Có lần tờ báo Xuân Phong Hóa đã
phải xuất bản lần thứ hai, vì nhu cầu bạn đọc. Trong tinh thần phản đối Khổng
giáo lỗi thời hành hạ con người, đả phá thái độ phong kiến quan lại cũ, chế
diễu lòng mê tín ngu muội, tố cáo sưu cao thuế nặng của tờ báo, những tấm tranh
bé nhỏ đã đụng được tới rất nhiều vấn đề, rất nhiều hủ tục, thói xấu, đã phá
bớt “những ý kiến cổ hủ, nó làm mờ mịt khối óc người ta” Riêng những vấn đề xã
hội, chính trị thực sự, chỉ được nói đến một cách rất nhẹ nhàng, chúng được
giấu rất kỹ để tránh kiểm duyệt rất khắt khe của thực dân Pháp... Tuy vậy, ngày
31 tháng 5 năm 1935, Phong Hóa đã bị Thống sứ Bắc Kỳ đình bản ba tháng. (Tới
nay, không ai biết tại sao báo bị đóng cửa. Có người cho là do loạt bài “Thần
thoại tân thời” Hậu Tây Du Ký nói động đến Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng cuả
triều đinh Huế... có người cho là do bài phóng sự sắc bén về Hoàng Trọng Phu...
đều do Hoàng Đạo viết. Tất cả chỉ là phỏng đoán, theo cuốn Tiếng Cười của Tú
Mỡ, (Vu Gia, cuốn Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, (6)). Theo Martina Nguyễn Thục
Nhi: “Do cả hai điều trên”, trong hồ sơ của phòng nhì Pháp: việc đóng cửa ba
tháng báo Phong Hóa là do báo này đã chế giễu các quan lại An Nam.
Ngày
5-6-1936, Phong Hóa số 190 đăng một tranh Lý Toét vẽ nhái theo chuyện “Tam anh
chiến Lã Bố” của Tam Quốc Chí, rất đẹp, không có chữ ký họa sĩ. Ngắm nét bút
đặc biệt sống động, ta có thể nhận ra họa sĩ vẽ tranh là Tô Tử tức Tô Ngọc Vân,
một trong những họa sĩ chính của Phong Hóa thời đó. Theo thông lệ, các tranh khôi
hài thường được mang ra bàn luận trong giờ làm việc chung của cả tòa soạn. Một
bức tranh nhiều ẩn ý sâu xa, mà không ký tên tác giả chắc là do sự góp ý của
nhiều thành viên tòa soạn.
Theo
sách Tam Quốc Chí, vào đầu công nguyên ba nước Ngụy, Thục, Ngô chia nhau nước
Tầu, tranh giành quyền lực, gây chiến tranh dài cả trăm năm. Trong một trận
đánh quyết liệt, tam anh, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, nước Thục, cùng nhau
vây đánh Lã Bố, nước Ngụy. Lã Bố tuy là đại tướng nổi tiếng vô địch, nhưng mãnh
hổ nan địch quần hồ, đã thua. Truyện này rất phổ thông ở Việt Nam, trước đây
gần như ai cũng biết. Trong các buổi diễn tuồng cổ, màn này thường được trình
bầy rất sôi nổi, các diễn viên hóa trang kiểu xưa, mặt mày tô màu xanh đỏ rực
rỡ, áo mũ tuồng lộng lẫy xênh xang, biểu diễn múa võ cao cường, trong tiếng
chiêng trống rộn ràng, và nhiều khi cả tiếng la hét cổ vũ của người xem.Bức
tranh này vẽ: “ba con chó cắn bố Lý Toét”, có con trai Lý Toét đứng ngoài xem,
dơ tay múa chân reo hò: “A ha! Tam anh chiến nhất Bố!”
Thật
là một câu dùng điển Tam Quốc “Tam anh chiến Lã Bố” để ví tuyệt hay. Tuyệt hay,
vì hai câu có cấu trúc hoàn toàn giống nhau, diễn tả hai trận đánh hoàn toàn
khác nhau. Do cách dùng hai nghĩa của chữ “Bố”: Bố là tên của đại tướng nước
Tầu: Lã Bố, mà “bố” cũng là bố của đứa con đang đứng ngoài dơ chân muá tay reo
hò.
Đọc
câu điển Tam Quốc, ta chỉ cần thay chữ “Lã” bằng chữ “nhất” là biến thành câu
ví, câu reo của con Lý Toét: Chuyện chiến đấu hào hùng trong sử Tầu biến thành
chuyện Lý Toét la ó chống chọi với ba con chó dữ. Nó làm người xem tranh cảm
được ngay, và cũng đau nhói lòng ngay, vì thấy đứa con trai reo hò vui thích
trước sự nguy khốn của bố mình. Đó là:
-
Con vô cảm, vô ý thức hay còn quá trẻ dại không biết rằng bố đang lâm nguy bởi
ba con chó dữ tấn công? Cùng lúc, nó nhắc người xem tranh:
Lý
Toét có mặt trên Phong Hóa từ số đầu tới nay, Lý Toét tượng trưng cho Phong
Hóa:
-
Độc giả có biết rằng báo Phong Hóa đang trong cơn khốn khó, có cơ nguy bị Pháp
đóng cửa, rút giấy phép vĩnh viễn bất cứ lúc nào? (như rất nhiều báo thời đó,
không được giải thích tại sao).
Lý
Toét, nhân vật thấm đẫm đặc tính dân tộc, những xấu tốt của vốn cổ, tượng trưng
cho đất nước lúc này:
-
Quốc dân có biết rằng đất nước mất chủ quyền, đang bốn bề thọ địch? (“Địch” là
thực dân Pháp, là sự ngu tối, dốt nát của đại đa số dân chúng, là sự chia rẽ
của các đảng phái trong nước, nguy cơ nội chiến...).
Trong
cảnh tình như thế, bố Lý Toét làm sao sống nổi! Than ôi! Đó cũng là tiếng kêu
cứu của Phong Hóa! Trùng hợp làm sao, đúng lúc đó thực dân kiểm duyệt đóng cửa
báo. Báo Phong Hóa bị chết ngay sau số 190 này (05/06/1936)!
May
thay, báo Ngày Nay hãy còn giấy phép, (Ngày Nay là báo dự phòng của TLVĐ, do
Nguyễn Tường Cẩm, anh ruột Nguyễn Tường Tam, một công chức, đứng tên, NN số 1
ra ngày 30/01/1935) nên Tự Lực Văn Đoàn còn hoạt động thêm được mấy năm nữa. Lý
Toét còn tiếp tục sống, tiếp tục kể chuyện đời trên báo.
Phải
đến thời Mặt Trận Bình Dân cầm quyền ở Pháp, những lời mong cầu tự do, bỏ kiểm
duyệt, bớt thuế... mới được viết ra một cách công khai. Những tưởng Mặt Trận
Bình Dân thuộc tả phái, sẽ nới lỏng chế độ bảo hộ. Mà không! Tất cả những lời
hứa chỉ là bánh vẽ, báo chí vẫn chịu chế độ cũ, bởi vì bên Pháp vẫn còn Bộ
Thuộc Địa, thực hành chủ trương khai thác thuộc địa, phục vụ Mẫu Quốc. Sau này,
dù trong thế chiến thứ II, dù năm 1939 Paris đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, chế
độ Bảo Hộ ở Bắc Kỳ vẫn rất khắt khe: Báo Ngày Nay bị đóng cửa vĩnh viễn năm
1940, người viết báo bị bắt bỏ tù (Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí... bị
giam, bị tra tấn dã man...từ 1941 tới 1943, tại Vụ Bản, Hoà Bình (5)).
Trong
bức tranh Mẫu Quốc (nước mẹ), dưới đây, Ngày Nay số 110, 1936, nhân Uỷ Ban điều
tra do Pháp gửi sang việt Nam
sắp làm xong công việc. Hy vọng của quốc dân là: Chắc sẽ có kết quả tốt? Họa sĩ
Rigt Nguyễn Gia Trí viết một câu chửi đổng:
-
Ồ, trông mong... nước mẹ gì!
Thế
rồi tới giữa năm 1940, báo Ngày Nay cũng bị đóng cửa rút giấy phép.Sau một vài
cố gắng cuả Khái Hưng, Thạch Lam ra báo, sách... đều chết yểu, các thành viên
phân tán, văn đoàn Tự Lực tan đàn sẻ nghé: Người chết vì bệnh, người bị Pháp
bắt bỏ tù, an trí, người trốn sang Tầu làm cách mạng, người đi xa lánh nạn,
người quay sang kịch... Chỉ còn nhà xuất bản Đời Nay sống lay lắt, in sách
bán... Tới tháng 4-1945 còn xuất bản cuốn thơ Hoa Niên của Tế Hanh, (Tế Hanh
cùng Anh Thơ được giải thưởng thơ của TLVĐ năm 1939, năm cuối còn có phát
thưởng, trước khi báo NN đóng cửa). Tôi không biết Hoa Niên có phải là cuốn
sách cuối của Đời Nay hay không.
Và
cuối cùng, tới tháng 5-1945 báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra đời, Hoàng Đạo phụ
trách mục “Kiểm diểm chính trường Việt Nam” (Hồ Hữu Tường, Nguyễn Tường Long,
nhà chính trị, Tạp chi Văn, số 107) Báo ra được 16 số là hết. Tới giữa năm
1946, nhà in được mang bán, chia tiền cho các thành viên.
Từ
đó tới nay, chúng ta chưa bao giờ thấy lại một văn đoàn, một nhóm văn nghệ sĩ
tài năng như thế, chung sức làm được một kho tàng văn hóa thành công như thế
nữa. Tất cả chỉ còn là bóng con chim nhạn bay qua ngang trời...
Tôi
còn nhớ khi còn rất nhỏ, được biết hai nhân vật huyền thoại Lý Xã qua một bài
hát do các chị dạy truyền khẩu, trước khi đi học chữ, để có thể đọc được tiểu
thuyết của TLVĐ (mà phải đọc lén, vì gia đình tôi cấm con gái đọc tiểu thuyết).
Đó là bài hát sau đây, tuy tôi thuộc nằm lòng nhưng không biết tác giả là ai,
phải hay không phải là người của Văn Đoàn Tự Lực:
Ông Lý Toét mà cắp cái ô
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời
miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
(Cóp bi bài trên nét của cụ Phạm Thảo
Nguyên)
(1) NguyễnMạnhHùng, Đi tìm gia phả hai nhân vật ảo Lý Toét và Xã Xệ,
Đại học Hồng Bàng,
(2) Georges Mignon, Nụ Cười ở Cõi Tân Á, L’Asie Nouvelle. Phong Hóa, số
109, trang 9
(3) George Dutton, Lý Toét in the City: Coming to Terms with the Modern
in 1930s Vietnam,
Journal of Vietnamese Studies, vol 2, Issue 1, pps 80-108
(4) Hoàng Đạo, Trả Lời Tân Xã Hội, Ngày Nay số 30, 18/10/1936.\
(5) Theo Nguyễn Lân, con Hoàng Đạo: Hoàng Đạo bị Pháp bắt cùng Nguyễn
Gia Trí, giam ở Vụ Bản. Bà Hoàng Đạo đi thăm, mang về một chiêc áo đầy máu. Khi
được tha về, ông bị đau tim nặng.
(6) Vu Gia, Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, nxb Văn Hóa, Hà Nội, 1997.
(7) Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã Xệ hai siêu sao của biếm họa Việt Nam, Thể Thao
-Văn Hóa 5/7/2008.
(8) Lý Trực Dũng, Sức sống của Lý Toét Xã Xệ, báo Thể Thao - Văn Hóa
7/7/2008.
(9) Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã Xệ: Nạn nhân hay chứng nhân, báoThể Thao -
Văn Hóa 8/7/2008.
(10) Tú Mỡ, Tiếng Cười, nxb Hội nhà văn, 1993
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét