Nguyễn
Phú Phong
|
1. Chữ quốc ngữ buổi đầu ở Nam Kỳ thuộc Pháp
Từ
quốc ngữ dùng ở chương này dùng để chỉ tiếng Việt và chữ viết theo mẫu
tự La Tinh. Tình hình dạy quốc ngữ ở Nam Kỳ từ buổi đầu Pháp mới chiếm đóng có những
điểm đáng nêu ra sau đây.
Ngày
17/2/1859, ngay khi đổ bộ lên Sài Gòn, đô đốc R. de Genouilly đã thấy có mặt
tại đây một chủng viện và một truờng học gọi là Trường d' Adran do Hội Truyền
Giáo Nước Ngoài thiết lập. Học sinh trường này học đọc và học viết chữ quốc
ngữ. Họ cũng được học tiếng LaTinh, đôi khi vài chữ tiếng Pháp nhưng rất hiếm.
Dĩ nhiên, quân viễn chinh Pháp phải nhờ đến Hội Truyền Giáo để được cung cấp
những người thông ngôn đầu tiên, các người này về ngoại ngữ chỉ biết tiếng La
Tinh, nhưng một thứ tiếng La Tinh tồi.
Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào
tạo những viên thông ngôn người Pháp, các người này về sau trở thành những giáo
sư đầu tiên về bộ môn tiếng Việt.
Học viên người Âu của trường này đều xuất thân từ bộ binh hoặc hải quân Pháp.
Điều đáng ghi nhận là trường này vốn là cơ sở hành chánh chứ không phải giáo
dục.
Ngày 31/3/1863, đô đốc Bonard
ra quyết định tái lập các hạt giáo dục cũ (do nhà Nguyễn thiết lập) với các
chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo; tạo chỗ cho học sinh các loại: học sanh, tú
tài, cử nhân; tái lập các cuộc thi hương (mà kỳ đầu tiên phải được thực hiện
năm 1864). Kiến thức về chữ quốc ngữ không bắt buộc trong các kỳ thi nhưng thí
sinh biết thứ chữ viết này được ưu đãi hơn.
Bắt đầu năm 1866, việc dạy
tiếng Pháp cho người Việt Nam được khởi sự nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo
sĩ; giáo hội lần hồi mở trường ở Mỹ Tho, Vĩnh Long và Chợ Lớn. Các trường học
nhà dòng được chính quyền thuộc địa trợ cấp, đã phát triển đáng kể trong 5 năm
trời.
Dưới thời đô đốc Ohier, năm
1869, một số trường được lần lượt mở ra ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An,
Rạch Giá, Cần Giộc, Ích Thanh (?), để dạy cho bọn tráng niên chữ quốc ngữ và
những bài vỡ lòng tiếng Pháp.
Ngày 17/11/1874,
đô đốc Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Nền
giáo dục này được tuyên bố là miễn phí và tự do, tuân theo qui định chung của
giáo dục quốc dân ở Pháp. Việc giáo dục (ở Nam Kỳ lúc đó) chịu
mệnh lệnh trực tiếp của giám đốc nội vụ và đặt dưới sự giám sát của các trường
quận mà trách nhiệm thuộc về các viên chức hành chánh.
Các trường làng dạy chữ Hán bị
bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lỵ, biến thành một trường duy nhất dạy
chữ quốc ngữ. Có sáu trung tâm thanh tra: Sài gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long,
Bến Tre, Sóc Trăng, mỗi nơi đều có một trường Pháp.
Có thể nói rằng buổi đầu thời
Nam Kỳ thuộc địa Pháp, tổ chức giáo dục ở đây còn đang trong thời kỳ mò mẫm,
việc đem chữ quốc ngữ thay thế hẳn chữ nôm và chữ Hán có khi phải khựng lại,
bằng chứng là việc tái lập các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo, và tổ chức lại
các cuộc thi hương.
Việc thứ hai đáng ghi nhận là
giáo dục được đặt dưới quyền của một viên chức nội vụ, tức là phụ trách an
ninh.
Nhận xét thứ ba là vì nhu cầu
hành chánh mà người Pháp lúc bấy giờ học tiếng Việt và những người này đều xuất
thân từ quân đội.
Có một sự khác biệt lớn giữa
người Việt và người Pháp hay người ngoại quốc trong việc học quốc ngữ. Người
Việt học quốc ngữ là học đọc và học viết tiếng mẹ; ngữ nghĩa và cú pháp tiếng
Việt họ đã nắm. Còn người ngoại quốc học quốc ngữ thì phải rèn luyện cú pháp,
ngữ nghĩa, đọc và viết. Người Việt học chữ
Hán không phải học viết mà thôi mà còn học đọc, học nghĩa, học cách dùng, tóm
lại là học một ngoại ngữ.
Nói chung bước đầu của chữ quốc
ngữ ở miền Nam
gặp nhiều khó khăn vì nhiều lý do. Tại những người chủ xướng là ngoại nhân đi
chinh phục. Tại họ là những quân nhân chỉ lấy những biện pháp cấp thời để giải
quyết những vấn đề giai đoạn nên không có một cái nhìn lâu dài. Tại việc giáo
dục mới mà chữ quốc ngữ là công cụ chuyển tải chính mặc dù có những kiện tướng
như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, phải đương đầu với một hàng
ngũ còn hùng mạnh thuộc trường học Hán-nôm truyền thống mà đại diện là các nhà
nho yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, v.v. Cuộc đối địch không thuần xảy ra giữa hai chữ viết của một
ngôn ngữ mà còn giữa hai thái độ chính trị, hợp tác và chống đối; giữa các tôn
giáo, đạo Ky Tô một bên, và Nho, Đạo và Phật, bên kia.
Sau khi được sử dụng làm chữ
viết “chính thức” của tiếng Việt ở Nam Kỳ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ bành trướng
ra phía Bắc. Những biến cố lịch sử có tác động vào, hoặc đánh dấu lên sự bành
trướng này là:
- Ngày 15/3/1874, Triều đình
Huế ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Nam Kỳ, từ địa giới phía
nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam.
- Ngày 25/4/1882, Pháp đánh
chiếm Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tử tiết.
- Ngày 25/8/1883, Triều đình
Huế ký với Pháp hiệp ước Harmand thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, thừa nhận
nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
- Ngày 06/6/1884, Triều đình
Huế và Pháp ký hiệp ước Patenôtre theo đó nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam
trong mọi quan hệ đối ngoại. Như vậy từ đây chữ/tiếng Hán nhường bước cho
chữ/tiếng Pháp trên mặt ngoại giao. Một cách lặng lẽ trong các cuộc giao thiệp
quốc tế, tiếng Việt/chữ quốc ngữ hoàn toàn vắng bóng, chịu sự “bảo hộ” của
tiếng Pháp.
- Ngày 27/1/1886, Tổng thống
Pháp bổ nhiệm Paul Bert sang cai trị Trung - Bắc Kỳ, mở đầu chế độ văn quan
thay chế độ võ quan trước đó. Cũng năm này Paul Bert thiết lập Bắc Kỳ Hàn
lâm viện (Académie Tonkinoise).
- Năm 1895, Phan Đình Phùng
mất, phong trào Cần Vương mà Phan là chủ tướng cũng tắt theo. Bài thơ tuyệt bút
của Phan Ngự sử nói lên tâm sự của một người bầy tôi phò vua cứu nước theo quan
niệm của một nhà nho yêu nước truyền thống được viết bằng Hán văn.
- Năm 1896, Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp -Việt ở Huế, gọi là Trường
Quốc học Huế.
Toàn cảnh "Lều chõng" thời xưa, học để làm quan nên cụ nào cũng phải cố... |
Việc đưa tiếng Pháp làm môn thi
ở Trường Nam Định là một
biến cố quan trọng vì tính cách biểu tượng của trường thi này trong chế độ khoa
cử theo nho học của Việt Nam.
Trần Văn Giáp (1941: 2) có nói qua lịch sử tỉnh Nam từ đời Hùng Vương để kết
luận: “Trong khoảng một trăm năm trước đây, tỉnh Nam Định sở dĩ có tiếng, toàn
quốc thiếu - niên nào bậc anh - tuấn, nào người ngu - độn, ai ai cũng chú - trọng
đến tỉnh Nam, là vì có trường - thi hương ở đó”.
- Ngày 15/12/1898, Toàn quyền
Đông Dương Paul Doumer ra nghị định thành lập Phái đoàn Khảo cổ học Thường
trực tại Đông Dương (Mission Archéologique Permanente en Indochine), đến ngày
20/10/1900 đổi gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Prangaise d’Extrême-Orient)
.
- Ngày 30/12/1898,
Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về chế độ báo chí ở Đông Dương.
- Ngày 20/6/1903, Thống sứ Bắc
Kỳ ra nghị định thành lập Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d’ apprentis
mandarins) theo chỉ thị ngày 9/2/1897 của Tổng thư ký Phủ Toàn quyền Đông
Dương. Ngày 18/4/1912 Trường Hậu bổ Hà Nội đổi thành Trường Sĩ hoạn (Ecole
des Mandarins). Ngày 15/10/1917, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lập Trường
Pháp chính Đông Dương (Ecole de Droit et d’Administration) thay cho hai
trường Sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế (thiết lập ngày 5/5.1911).
- Ngày 27.4.1904,
Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp - Việt ở Bắc kỳ.
- Tháng 5/1904, Thành lập Hội Duy Tân ở
Quảng Nam.
Hội này do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm hội trưởng mà mục đích là Khôi phục
nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến (xin đừng lẫn lộn Hội Duy
Tân với Phong trào Duy Tân do Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng
chủ xướng).
- Tháng 7/1905, Mở đầu Phong
trào Đông du của Duy Tân hội. Phan Bội Châu viết Khuyến quốc dân du học
văn.
- Ngày 8/3/1906, Toàn quyền
Đông Dương cho thiết lập Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de
Perfectionnement de l’ enseignement indigène).
Như vậy
từ đầu thế kỷ 20 trở đi, sau khi cuộc đấu tranh vũ trang của Phong trào Cần
Vương tan rã, nước Việt Nam dưới mắt người Pháp, xem như đã được bình định, nhà
cầm quyền Pháp bắt đầu đặt để những cơ chế về hành chánh, giáo dục để cai trị
các xứ thuộc địa và bảo hộ. Các cơ chế chính quyền của Triều đình nhà Nguyễn
dần dần hoặc bị thay thế hoặc bị làm suy yếu đi không còn thực quyền. Hán học,
nền tảng của công cuộc đào tạo sĩ phu, quan chức nhà Nguyễn, theo đó cũng tàn
tạ nhường chỗ cho lớp quan chức mới xuất thân từ các trường Pháp - Việt. Chữ
quốc ngữ từ trong Nam lan ra đất Bắc, xen vào các kỳ thi; biết quốc ngữ trở
thành một yêu cầu để bước vào quan trường. Tuy vậy vào cuối thế
kỷ 19, những bước đầu của quốc ngữ ở miền Bắc còn rất e dè, như lời tự thuật
của nhà nho Nguyễn Bá Học: “Tôi lúc mới học quốc ngữ thường không dám học to
tiếng, chợt có khách đến phải giấu ngay sách vào trong túi áo, hình như có hai
mươi bốn mẫu tự quốc ngữ, là một cái sách bí mật cấm thư” (xem Cụ Nguyễn Bá Học,
Nam Phong, số 50, aoủt 1921, tr. 167).
3. Bước ngoặt quyết định của
chữ quốc ngữ
Nhưng bước ngoặt quyết định dẫn
đến sự thành công của chữ quốc ngữ là do chính các nhà nho trong hàng ngũ Phong
trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục.
Phong trào Duy Tân phát động từ
năm 1905 ở Quảng Nam với ba lãnh tụ: Trần Quý Cáp (1871-1908), quê huyện Điện
Bàn, Quảng Nam, đậu tiến sĩ năm 1904; Phan Châu Trinh (1872-1926), quê huyện
Tiên Phước, Quảng Nam, đậu phó bảng năm 1901; Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), quê
huyện Tiên Phước, Quảng Nam, đậu tiến sĩ khoa hội thi năm 1904. Bộ ba này năm
1905 nhân chuyến vào Nam, đến Bình Định, mượn tên ứng thí trong một kỳ thi đã
làm hai bài thơ Chí thành thông thánh và Danh sơn lương ngọc đả
kích những người còn bát cổ văn chương thụy mộng trung (ngủ mê trong giấc
mộng văn chương bát cổ). Hai bài thơ này rõ ràng tấn công vào nền cựu học,
bài xích cái học cử nghiệp, mở đầu cho chủ
trương tân học sau này của Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục khai giảng tháng 3/1907 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, chương
trình noi theo đường lối tân học của
Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các sĩ
phu sáng lập có cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng của Trường; cụ huấn Nguyễn
Quyền, giám học; cụ án Nghiêm Xuân Quảng, v.v.., và một số nhà tân học như
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, v.v. Trọng
tâm các trước tác của Đông Kinh Nghĩa Thục nhắm vào hai mặt, đánh đổ và xây
dựng. Đánh đổ các hủ tục, lối nhắm mắt học từ chương theo kiểu khoa bảng cũ,
các tư tưởng thoái hoá của tầng lớp sĩ phu thủ cựu. Xây dựng bằng cách hướng sự
học vào các khoa học kỹ thuật mới, xem nặng thực nghiệp, chấn hưng công thương
nghiệp. Và nhất là kêu gọi học chữ quốc ngữ.
Từ buổi đầu cuộc chiếm đóng Nam
Kỳ của Pháp đến khi Phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời, nửa thế
kỷ trôi qua, chữ quốc ngữ đã lột xác dưới mắt các sĩ phu Việt Nam. Chữ quốc ngữ trước kia bị xem như một toan tính của chính
quyền thuộc địa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam, như một vũ khí đi chinh
phục của ngoại nhân, bây giờ được đón tiếp như một công cụ chuyển tải hữu hiệu
những tư tưởng yêu nước, những tri thức mới. Như vậy là từ một
công cuộc La Mã chữ viết bị ép buộc, việc áp dụng chữ quốc ngữ đã chuyển thành
một cuộc La Mã hoá đồng thuận và tự nguyện. Và chuyện
lột xác này phần lớn lại do tác động của các nhà nho, của các ông tiến sĩ, phó
bảng, thám hoa, cử nhân triều Nguyễn, những người xuất thân từ cửa Khổng sân
Trình, tinh thông chữ Hán.
Lập trường của ba vị Trần, Phan
và Huỳnh, của Phong trào Duy Tân, đối với chữ quốc ngữ thực quá rõ ràng qua Bài
hát khuyên học chữ quốc ngữ mà tác giả chắc là Trần Quý Cáp, có đoạn:
... Chữ quốc ngữ là hồn
trong nước/ Phải đem ra tính trước dân ta/ Sách các nước, sách Chi Na Chữ nào
nghĩa ấy dịch ra tỏ tường...
Bài thơ này cũng được xếp vào
thơ văn của Đông Kinh Nghĩa Thục (xem Vũ Văn Sạch và đtg, 1997: 110) chứng tỏ
rằng hai phong trào đều có những chủ trương giống nhau về ngôn ngữ và chữ viết.
Hơn nữa một người như Phan Tây Hồ chẳng hạng lại cùng hoạt động ở cả hai bên.
Khuyên học chữ quốc ngữ không
phải là một trào lưu cách biệt mà là một bộ phận trong một phong trào qui mô
hơn có thể gọi là sách lược học văn minh theo đường lối mới. Như vậy ta sẽ
không lấy làm lạ khi thấy xuất hiện một hiện tượng khác của phong trào, việc cổ
động hớt tóc:
Cúp hè! cúp hè!
Tay mặt cầm kéo Tay trái cầm lược Cúp hè! cúp hè!
Đủng đỉnh cho khéo.
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo người Tây.
Hãy còn ăn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo.
(Vè cúp tóc)
Phản ứng lại phong trào hớt
tóc, nổi lên vụ án thế phát về phía chính quyền: những người có mái tóc hớt
ngắn bị các quan bắt bớ. Các nhà nệ cổ cũng làm thơ chống đối:
Mồ cha, mả mẹ anh đâu?
Còn vua còn chúa, hỏi anh
cúp cái đầu thờ ai?
Chữ rằng phục quốc Tây lai,
Xem trong Nam Việt ai ai
cũng buồn tình.
Nước Nam mình còn miếu, còn
đình,
Còn khoa, còn mục, còn mình,
còn ta, Làm chi khác thể ông thầy chùa,
Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên
đua cúp đầu.
Xem thế, cái phạm vi của nền
văn minh mới mà phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục cổ vũ thật là đa
dạng, rộng rãi và bao quát. Việc dạy và học
quốc ngữ trong ý đồ Pháp hoá (francisation) dân thuộc địa của chính quyền Pháp
ở Đông Dương trở thành một chủ trương nhằm giáo hóa dân chúng của các nhà nho
thức thời mà mục đích cuối cùng vẫn là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập
cho nước nhà.
Như vậy chữ quốc ngữ
loại hẳn chữ nôm để dùng viết tiếng Việt trên toàn cõi Việt Nam từ đầu
thế kỷ 20 và từ đó danh từ chữ quốc ngữ thường được dùng để chỉ tiếng
Việt nhiều hơn để chỉ chữ viết. Cứ đọc kỹ Bài hát khuyến học ở
trên thì ta thấy ngay. Khi nói Chữ quốc ngữ là hồn trong nước thì các cụ
nhà nho muốn nói Tiếng Việt là hồn trong nước chứ chẳng lẽ trước khi chữ
quốc ngữ được các nhà truyền giáo Âu Châu phát minh nước ta không có hồn hay
sao? Sau này có kẻ hậu bối dựa theo câu hát này mà nói lên lời Tiếng ta còn
thì nước ta còn. Còn trong hai câu: Sách các nước, sách Chi Na. Chữ nào
nghĩa ấy dịch ra tỏ tường... thì quả là chữ nghĩa ở đây là thuộc về từ
chứ không thuộc về tự,
và dịch ra thì dịch ra tiếng Việt chứ không thể dịch ra chữ quốc ngữ hiểu như
chữ viết.
Tình hình thắng lợi của chữ
quốc ngữ trong cuộc cạnh tranh với chữ nôm và sự lẫn lộn giữa chữ viết (chữ
quốc ngữ) và ngôn ngữ (tiếng Việt) được thể hiện rõ trong bài diễn văn của đại
úy Jules Roux* đọc ở Toà Đốc lý quận 6 Paris, ngày 6.7/1912 nhan đề là: Le
triomphe définitif en Indochine du mode de transcription de la langue annamite
à l"aide des caractères romains ou " Quốc ngữ" [Cuộc
thắng lợi vĩnh viễn của phương thức ghi tiếng Annam bằng con chữ La Mã hay “Quốc
ngữ”]. Dưới đây xin trích ra một số đoạn của bài diễn văn nói lên sức mạnh và
sự thành công của quốc ngữ theo quan điểm của một người Pháp có thiện cảm và
tin tưởng vào tiếng Việt.
Trước hết Roux xác nhận quốc
ngữ - Roux dùng quốc ngữ thay
vì chữ quốc ngữ - là:
Giảng đường thời Pháp thuộc... lạc hậu quá so với bây giờ. |
“Phần tôi [tức là Roux], tôi
không thù ghét gì chữ Hán nhưng thứ chữ này đối với quốc ngữ trong 30, 40 năm
tới đây sẽ giống như tiếng La Tinh đã trở thành đối với tiếng Pháp như ngày
nay...
“Việc giảng dạy quốc ngữ đã toả
lan với một tốc độ chóng mặt ...
“Tư tưởng và sự vật được họ [những
người Việt du học ở Paris]
diễn tả bằng những chữ Hán thích hợp. Những chữ Hán này, thường là chữ đôi,
phát âm theo một cách nào đó trong tiếng Việt, và cách phát âm này được ghi lại
rất chính xác bằng quốc ngữ. Các từ mới này dưới dạng quốc ngữ... càng ngày
càng làm giàu cho tiếng An Nam ...
“... Hậu quả khác: ngôn ngữ này
[tức tiếng Việt], được viết bằng con chữ La Mã như thế, có chiều hướng trở
thành đa âm tiết... Như vậy những từ như tự - do, đồng - bào, tự - lập, bảo-
hộ… được ghép bằng hai từ đơn âm hiện nay lập thành, đồng thời cùng với số
động từ khác, những từ hai âm tiết chân chính mà sự biến chuyển tự nhiên của
quốc ngữ rốt cuộc sẽ bỏ bớt cái gạch nối để trở thành những từ nối liền (tự do,
đồng bào ... ghi chú thêm của NPP) giống như các từ Pháp portemonnaie hay
portefeuille (thay vì porte-monnaie hay porte-feuille, ghi
chú thêm của NPP).
“Như vậy, quốc ngữ... xâm nhập mọi
thứ. Nó được dạy mọi nơi ...
“Chính là thông qua quốc ngữ mà
dân An Nam gắn bó với nền văn minh Pháp và chính cũng qua quốc ngữ mà chúng ta
xáp lại gần với dân tộc này...
“Tướng Pennequin hiện đang chỉ
huy quân đội ở Đông Dương, có viết năm 1909: “Quốc ngữ là công cụ chân chính
để đưa tư tưởng chúng ta xâm nhập vào dân An Nam...
“... Thật đáng buồn thay
trong một thời gian dài quốc ngữ không những không được quan tâm mà còn bị
chống đối.'
“Ông Farjenel, người học chữ
Hán từ 20 năm nay... đã nói như sau:
“Ở Bắc Kỳ, thế hệ mới đã dốc
lòng học quốc ngữ mà họ nhận ra cái thế hơn trội đối với chữ tượng hình nhất là
trên phương diện dễ học. Chir những thầy đồ già mới nuối tiếc cái kiểu viết cổ
lỗ sĩ (archaique) của chữ tượng hình.
“Một công văn năm 1910 của Khâm
sứ Bắc Kỳ định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc quảng bố như nghị định,
quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn
này cũng nói thêm rằng [việc dùng quốc ngữ] phải áp dụng cho thư tín thường lệ
giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và càng nhiều càng hay, cho các
thông tri của các quan lại gửi đến người dân ...
“Năm 1909, ở Hanoi có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt
để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm
đến những mục đích sau đây:
1. Đưa ra mắt những tác phẩm
văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông - chữ nho hay chữ nôm - bằng cách dịch
ra quốc ngữ hay tiếng Pháp;
2. Dịch ra quốc ngữ những sản
phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính
trị, văn học, với dụng ý là ổn định... ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ
An Nam...
Bonus các cụ tấm ảnh xưa... |
“Khâm sứ Bắc Kỳ tuyên bố là
không đặt vấn đề gạt bỏ văn tự Trung Quốc để thay thế bằng quốc ngữ.
“Mọi cuộc phiên viết theo ngữ
âm dành cho tiếng An Nam hay Hán-Việt đều thiếu sót và đưa đến nhiều chỗ không
rõ ràng. Ông Simoni [Khâm sứ Bắc Kỳ] viện lý do là số lượng âm tiếng An Nam hay
Hán-Việt rất giới hạn nên rất khó khăn để phân biệt chúng nếu không dùng chữ
tượng ý [Vấn đề từ đồng âm, chú thích NPP].
“Nhưng đó chính là điểm mà
tôi (Roux) phản bác bằng cách nêu lên sự sử dụng càng ngày càng tăng trong quốc
ngữ những từ đôi, những từ này đem lại cho tiếng An Nam tính chính xác ...
“... Không, ông Khâm sứ ơi! Các
cuộc phiên viết theo ngữ âm dành cho tiếng An Nam, nhất là Hán-Việt, sẽ đáp ứng
và sự phiên viết này sẽ không gây ra nhầm lẫn khi các ông đồ An Nam dùng
quốc ngữ để thông qua những chữ đôi ...”.
Tóm lại để chứng minh cái thế
thượng phong của chữ quốc ngữ, Roux đã triển khai hai điểm chính sau đây:
1. Dưới mắt một sĩ quan thuộc
địa, quốc ngữ là một phương tiện tốt, có hiệu năng để truyền bá văn minh phương
Tây, để xâm nhập tư tưởng dân bảo hộ, và nhất là công cụ tiện lợi để soạn thảo
công văn hành chánh, điều hành chính quyền.
Tảo tần nuôi chồng ăn học.... |
Qua chương trình hành động của
Phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục, qua tình hình và nhận xét của viên
quan ba pháo binh Jules Roux, thì quốc ngữ thắng lợi hoàn toàn. Chữ viết La
Tinh hoá trở thành quốc tự và quốc ngữ/tiếng Việt chứng tỏ có đủ sức để trở
thành một ngôn ngữ khoa học, nghệ thuật, chính trị. Còn cái điều cho tiếng Việt
đã đạt đến độ một ngôn ngữ văn chương trác tuyệt chưa thì đã được chứng minh
qua các tác phẩm nôm như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm ở thế kỷ 18,
và nhất là Truyện Kiều ở đầu thế kỷ 19.
(*) Roux, đại úy pháo binh
thuộc địa, tiến sĩ luật, là bạn của cụ Phan Châu Trinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét