Khiemnguyen

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

Nói chơi - nét văn hóa đặc sắc của người bình dân qua ca dao Tây Nam bộ




Trần Minh Thương
1. Nói chơi theo từ điển
Theo Từ điển tiếng Việt thì nói chơi là nói cho vui, không có mục đích gì khác [942]. Song, trong đời sống người bình dân, khái niệm nói chơi không chỉ đơn thuần có vậy. Ngoài chức năng nói cho vui, tức là để bông đùa, giải trí, thì nhiều lúc nói chơi mà là thật, nói chơi để hướng đến một mục đích nào đấy, hoặc muốn nói theo cách nước đôi, để người nghe hiểu sao cũng được.
Trong khuôn khổ bài viết của mình chúng tôi tìm hiểu những biểu hiện đặc sắc của cách nói chơi - vốn đã trở thành văn hóa phi vật thể trong đời sống của người dân miệt sông nước Cửu Long giang.
2. Nói chơi trong văn hóa dân gian
Như đã nói, trong cách sử dụng của dân gian nói chơi mang hàm ý rộng hơn nhiều so với nghĩa mà từ điển đã xác định. Nói chơi gồm rất nhiều cấp độ, với những chức năng và nội dung khác nhau. Chúng tôi xin liệt kê ra đây một số hình thức nói chơi trong ca dao Tây Nam bộ.
Đầu tiên nhắc đến nói chơi tức là cách nói để chọc người khác bằng những lẽ cợt nhã, dân gian gọi là nói chọc, nói ghẹo.
Vú em nhu nhú chúm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Chàng trai buông lời chọc gái bán cau bằng cách nói sổ sàng nhưng cũng không kém phần duyên dáng như vậy. Có điều đối tượng nghe không bình tĩnh nhận ra thâm ý cứ ngỡ rằng anh ấy muốn hỏi, muốn khen cau em bán là cau ngon ... thì hết sức nguy hiểm!
Người bình dân còn dùng cách nói dóc để nói chơi. Nói dóc là nói khoác lát và bịa đặt để cho vui hay để ra vẻ.
Nước mắm ngon dầm con cá lóc
Em có chồng rồi nói dóc với anh
Nội dung câu ca đã chỉ rõ, chủ thể phát ngôn đã tận tường lời của người đối diện thốt ra trước đó. Anh vừa nói chơi mà lại như một lời cảnh báo! Anh không dễ gì lầm em được đâu, đừng kiếm chuyện “xí gạt” nhau mà làm gì!
Còn đây là cách nói dóc đích thực, với mục đích để chơi, chơi một cách có hàm ý thật khéo léo:
Anh dạo chơi mười tám nước chư hầu
Không ai ăn nói cơ cầu như em.
Gần với nói dóc là nói dối, tức là người nói muốn nói sai sự thật do nhiều yếu tố khác nhau:
Dầu ai bảo đợi bảo chờ
Thì em nói dối con thơ em về
Xem ra đây là lời khuyên rất độc đáo của một anh chàng chân lấm tay bùn nào đấy. Muốn sở hữu người con gái mình để ý cho riêng mình, anh ta bày cho cô cách nói dối, mà trọng lượng thì không cần bàn bởi cái cớ “con thơ” thì chắc rằng bấy cứ anh chàng nào nghe cũng phải để đôi lúc còn bảo cô về gấp cho đi vậy!
Cách nói đẩy đưa cũng được dùng trong giao tiếp hàng ngày. Nói đẩy đưa là nói nhằm kéo dài câu chuyện một cách êm thắm:
Nói đẩy nói đưa cho vừa lòng bạn
Sông giang hà khúc cạn khúc sâu
Nói chơi cho có chuyện để nói, nội dung thật giả đôi khi không phải là điều quá quan trọng.
Cùng với nói đẩy đưa, nhiều khi người ta nói đó là chuyện tầm phào, tức là cách nói vu vơ, không thiết thực, không đáng nghe:
Anh đừng nói chuyện tầm phào
Nói qua nói lại nói vào nói ra
Cùng với cách nói đẩy đưa, người bình dân còn sử dụng cách nói bóng, nói gió, nói bỡn cợt, kiểu như:
Gái Mĩ Tho đồng xu ba đứa
Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua
Những cách nói ấy, dân gian gọi là nói cà rỡn. Nói để mua vui là chính, tuy vậy sự thật đằng sau những câu nói ấy vẫn ẩn chứa không ít ý nghĩa mà người nói muốn nói:
- Đứng xa kêu bớ em Mười
Thương hay không thương em nói thiệt chớ đừng cười đẩy đưa.
- Anh thương em, nói thiệt em nhờ,
Anh đừng nói gạt,em chờ hết duyên.
Nói chơi cũng là hình thức của nói xàm, nói xạo, tức là nói tầm bậy, nói cho rộn chuyện chứ không hề can dự vào:
Thương em anh phải đi đêm
Té xuống bờ giếng, đất mềm không đau.
Đất mềm nên mới không đau
Phải chi đất cứng xa nhau lâu rồi.
Cấp độ cao nhất của nói chơi là nói tục, nói trây (chây). Tức là dùng những lời lẽ liên quan đến cơ thể con người hoặc gợi đến hành động ân ái chốn phòng the để bỡn cợt. Thấy cũng cần nói thêm nói trây là âm Việt mượn từ tiếng Khmer, những người sinh sống cộng cư với đồng bào dân tộc Kinh, Hoa ở vùng này. Trây (chây) theo bản ngữ Khmer là một tiếng chửi tục, chỉ hành động giao hoan của giống đực và gióng cái.
Một chú hay bác nông dân nào đó muốn tán tỉnh người đàn bà góa chồng mà nhà ở cạnh nhau, chung đường chung xóm:
Cu tui vừa mới mọc lông
Chị cho mượn cái lồng tui nhốt cu tui
Tất nhiên đây là cách dùng từ đồng âm giữa con chim và bộ phân sinh dục để ... nói chơi, chọc ghẹo đối tượng.
Táo bạo hơn, lời của một anh chàng “ghẹo gái”:
Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú
Thấy dạng em chèo cặp vú muốn hun
Tất nhiên người nói nói ra cho thỏa vẻ mộng mơ huyền ảo thế thôi, chứ người nghe chắc gì đã nghe thầy. Một người chèo ghe giữa dòng sông rộng, bập bềnh sóng nước, một anh chàng cao hứng đứng trên bờ cất tiếng nói chơi!
Gần đây, khi đời sống kinh tế phát triển, những tệ nạn xã hội cùng tràn về tận vùng thôn quê, hẻo lánh. Lời một ai đó cao hứng, chọc ghẹo hay tán tỉnh đối tượng “làm tiền”:
Trăng lên tới đỉnh mu rùa
Cho anh một cái tới mùa anh trả khoai
3. Khi nào thì nói chơi
Tất nhiên đã nói là nói chơi thì nói mọi lúc, mọi nơi. Không gian và thời gian nào có giới hạn.
Có khi để đùa cợt cho khuây khỏa, họ dựng lại hình ảnh:
Bà già đi lượm mù u
Bỏ quên ống ngoáy chổng khu la làng
Hay hình ảnh của những chàng trai vô tích sự:
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo
Nói chơi trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất
Cô kia đi hái bồn bồn
Chổng mông cô để cái l... cô lên
- Trời mưa cá sặt lên gò
Thấy em chăn bò anh để ý thương
Trời mưa ướt cọng rau mương
Bò em em giữ anh thương giống gì?
Nói chơi trong hát ru em
- Má ơi con vịt chết chìm
Thò tay con vớt cá lìm kìm nó cắn tay con
- Má ơi con má hư rồi
Còn đâu má gả má đòi bạc muôn
Khi hò đối đáp họ “nói chơi”, “hò chơi” để bắt bí nhau:
- Hò chơi phỉ dạ hai đàng
Công anh ở trển băng ngàn xuống đây
- Hò chơi một chặp cho mê
Trai nam nhân bỏ vợ, gái hiền thê bỏ chồng
Có khi họ dùng cấch nói chơi để hỏi khó nhau :
- Tiếng anh ăn học đã thông
Em hỏi anh chứ khăn bàn lông mấy đường
- Khăn bàn lông anh đội một nắng hai sương
Đắng cay dầu dãi nên nó có mấy đườn ... anh quên!
Nói chơi diễn ra hầu như trong tất cả các cấp độ của tình yêu, nơi đáng lẽ ra cần phải nói những lời nghiêm túc nhất.
Buổi đầu gặp gỡ, họ dùng cách nói chơi nhưng để tỏ bày tình cảm thật:
Thò tay mà ngắt cọng ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ
Lời ngoài miệng thì nói chơi còn bụng dạ thiệt tình đến đâu, chắc chỉ có người trong cuộc mới hãn tường cớ sự!
Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan ruột với người mình yêu:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Lời thề được thốt lên mãnh liệt:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông
Đến khi duyên tình gãy đổ, họ tìm ông tơ mà “trị”
Bắt Ông Tơ đánh sơ vài chục,
Bắt Bà Nguyệt nếm mấy mươi hèo.
Người ta năm bảy vợ theo,
Còn tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!
Nguyền rửa để hả dạ hả lòng, duyên phận lỡ làng, biết làm sao hơn được! Độc đáo hơn lời nguyền ấy ẩn trong cách nói... chơi!
Khi duyên tình bén lửa, nhiều khi trai gái “vượt rào đến với nhau”, họ dùng lời nói chơi để hò hẹn:
Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Em lựa lời dối mẹ em qua
Và tất nhiên chuyện gì đến cũng phải đến. Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người mình yêu khi chàng và nàng muốn “gần” nhau:
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay
Ngày xưa cái giường của người nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiêu lỏng, đụng vào đó nó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã hơn một lần chợt thức giấc, nghe tiếng chiếc giường tre kêu rúc rích, cô gái đã nhanh trí trả lời rằng đấy là do chuột ở trong rương (!). Rút kinh nghiệm, cô gái đã nhắc khéo cho tình nhân kẻo lỡ làng chuyện ân ái.
Khi bị phản bội bởi tin những lời đưa đẩy của anh chàng miệng thoa mỡ nào đó, cô gái bạo dạn, phản khảng bằng một lời rủa chơi, nhưng lại rất thiệt lòng, thiệt dạ:
Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận ghe
Đúng, rất chính xác, chỉ có những cô em gái quê rang quê rít, tóc dài bỏ xoã, bận áo bà ba (lời một bài dân ca ở Sóc Trăng) mới có trực tính để bật thành tiếng nói ngang tàng, liều lĩnh như vậy!
Phía chàng trai cũng không kém phần bạo dạn:
Có chồng thì mặc có chồng
Còn duyên anh ẵm anh bồng anh hun
Hay như liều lĩnh kiểu Chí Phèo (nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao):
Tôi hun mình dẫu mình có la làng
Thì tôi là xóm hai đang la chung Tôi hun mình dẫu mình có làm hun
Nhơn cùng tắc biến tôi chun xuống sàn
4. Cách hình thức được dùng để nói chơi
Một là, dùng thành ngữ, điển tích trong nói chơi. Thành ngữ là cụm từ cố định, bền vững, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. [2; 297]. Đây là một cách dùng thành ngữ Hán Việt trong điệu hò:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
Đi liền với thành ngữ là những điển tích. Điển tích (hay điển cố) là một biện pháp tu từ, ở đó tác giả sử dụng “câu chuyện” sao cho phù hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc cho lời văn, ý thơ. Ca dao Tây Nam Bộ cũng vậy, không hiếm những câu chuyện trong sách sử được dùng để nói chơi:
Tiền Đường, hậu Tống, Tam Quốc, Châu Do Em không thương anh, nói chuyện đưa đò Tỷ như Đắc Kỷ theo phò Trụ vương.
Châu Do nhân vật trong Tam Quốc chí diễn nghĩa. Đắc KỷTrụ vương là hai nhân vật trong Phong thần diễn nghĩa, các tác phẩm vừa kể được dân gian gọi chung là truyện Tàu, thể loại văn học ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống người bình dân Tây Nam Bộ từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước.
Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời nói, làm cho ý của người nói chơi thêm sinh động, hàm súc, người tiếp nhận phải có cùng “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà người nói muốn biểu đạt!
Hai là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ
Em ơi hãy lấy anh thợ bào
Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
Rất dễ dàng nhận ra chuyện thợ bào đẩy bào để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn, đến chuyện đẩy theo cách nói trây, dân gian gợi nên hành động của vợ chồng chốn phòng the!
Tương tự từ đẩy vừa phân tích, là từ cày sau đây:
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm
Cách nói táo bạo hơn, nhưng người nghe không thể bắt lỗi người nói chơi được:
Bướm vàng đậu đọt mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng hòa
Cu là con chim gáy, lồng là vật để nhốt chim. Nhưng thật tình không người nghe nào chỉ dừng cách hiểu của mình ở đó cả, .
Ba là dùng các biện pháp tu từ.
Từ hình ảnh so sánh:
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Cá rô mề quá đỗi quen thuộc với vùng sông nước, ruộng đồng. Mượn nó, để ví với... thân em thì thật là dí dỏm! Tình cảnh của người con gái ngày xưa không khác gì thân cá rô nằm trong rổ nhảy rồ rồ, lao xao giữa chợ. Tinh ý hơn, người nghe còn phát hiện cá rô mề là để liên tưởng đến chỗ kín đáo nhất của người con gái, . thật là một cách nói khéo không ai bằng được người bình dân!
Rồi nói bằng ẩn dụ:
Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công
Câu ca tả thực cảnh của người nông dân chân lấm tay bùn. Song, ý người muốn nói chưa dừng hẳn ở đó. Ruộngbờ liên quan nhau như vật sở hữu và người sở hữu. Vậy tình yêu, có cần phải cắm ranh, cặm cọc hay không? Có lẽ trả lời rằng “cần” phải có “bờ” có “đập” để xác lập chủ quyền, xem ra không có gì là quá đáng!
Hoặc dùng hoán dụ:
Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn thương
Mượn từ bụng để nói cả tâm tình lưu luyến của cố nhân! Lấy bộ phận để nói khái quát cho cái toàn thể là vậy.
Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để thay lời người muốn nói:
Cóc chết nàng nhái rầu rầu
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi
Nói chơi cho vòng vo nhưng là thiệt bụng, thiệt lòng làm sao!
Bốn là, nói chơi bằng những câu hỏi tu từ. Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng cần ai trả lời, bởi đó là cách nói khó. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi!
Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt,
Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em?
Chia sẻ hay mỉa mai, chọc ghẹo… tính chất đa nghĩa ấy bộc lộ qua lời nói chơi dành cho người kém may mắn trong chuyện lứa đôi:
Cau già lỡ lứa bán trăm,
Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?
Nhiều lúc, những câu hỏi trong lời nói chơi đã nâng lên thành triết lý trong quan hệ giữa người với người trong xã hội:
- Nước không chưn sao gọi rằng nước đứng,
Chén của người sao gọi chén chung?
- Ai từng bận áo không bâu,
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không vôi?
- Chim bay mỏi cánh chim ngơi,
Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan.
5. Kết luận
Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để xua tan đi những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục thiên nhiên hoang dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ ràng nhất.
Lời nói là phương tiện không thể thiếu trong giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hoá ứng xử của người bình dân. Hơn thế, lời nói đã đi vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh thêm những “hạt ngọc” tinh thần của người dân quê chơn chất.
Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học tập nhiều lắm ở họ:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
2. Lê Giang (sưu tầm - sưu tập - biên soạn), Bộ hành với ca dao, Nxb Trẻ,  Tp Hồ Chí Minh, 2004.
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
4. Nguyễn Lực - Lương Văn Đang, Thành    ngữ    Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976.
Và những câu ca dao sưu tầm từ điền dã dân gian của tác giả bài viết./.

Nguyễn Văn Vĩnh và sự phát triển chữ quốc ngữ



Nguyễn Minh Triết

Danh từ “chữ Quốc ngữ” mặc dù không được chính danh. nhưng do chúng ta dùng đã lâu nên quen và danh từ “chữ Quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam dùng mượn mẫu tự La tinh ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương. Từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, và qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của nhiều người Việt cũng như người ngoại quốc.
Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài gần ba trăm năm mươi năm, tính từ ngày đội thương thuyền đầu tiên của Bồ Đào Nha cập vịnh Đà Nẵng năm 1516 đem theo những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi tờ Gia Định Báo do Trương Vĩnh Ký chủ trương là tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời vào năm 1865. Theo các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Việt Nam từ trước tới nay đều khẳng định chữ quốc ngữ là một sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những vị đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể tạm ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển. Công lao đặt nền móng chắc chắn thuộc về các giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Ý, người Pháp, người Hà Lan... và có cả nhiều người Việt Nam. Vì chính người Việt chứ không ai khác đã dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ nước ngoài, và một khi đã có một số tín đồ bản địa tiếp cận tiếng La tinh thì nhất định họ có góp phần vào việc ghi âm chữ quốc ngữ bằng thứ mẫu tự ấy. Một trong các người ngọai quốc có công lớn trong việc hình thành nên chữ Quốc ngữ là Alexandre de Rhodes. Ông đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm từ năm1624 đến năm 1630 và đã đóng góp nhiều công sức trong việc La tinh hoá tiếng Việt. Tiếp nối công trình của những người đi trước là các tu sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa v.v... Trong việc La tinh hóa để phổ biến tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt -La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.
Tuy vậy, ngay sau khi đã được định hình một cách tương đối có hệ thống, chữ Quốc ngữ vẫn chỉ được dùng quanh quẩn trong phạm vi các nhà thờ Thiên Chúa giáo. Phải đợi tới năm 1863 khi người Pháp xâm chiếm miền Nam Việt Nam, sự phát triển chữ Quốc ngữ mới được đẩy mạnh với việc chính quyền Pháp đón ông Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đang học ở trường dòng Penang ở Mã-Lai về làm thông ngôn. Ông Trương Vĩnh Ký, người tỉnh Vĩnh Long, là con một ông quan triều Nguyễn làm việc tại Cao Miên. Vị quan này mất sớm nên một cố đạo người Pháp, “Cố Long”, đã nhận ông Trương Vĩnh Ký làm con nuôi và đưa sang Mã-Lai cho học tại trường dòng nói trên. Ông Ký rất thông minh lại được học có hệ thống nên đã thông thạo nhiều thứ tiếng như: Pháp, La-tinh, Anh, Nhật, Ấn Độ, Trung Hoa và cả Hy Lạp.
Pháp đón ông Pétrus Ký về để làm người trung gian giao dịch với triều đình Huế, và để mở trường thông ngôn... Ông đã làm chủ bút tờ công báo đầu tiên in bằng chữ Quốc ngữ, tờ Gia Định báo với sự hợp tác của các ông Huỳnh Tịnh Của và Tôn Thọ Tường. Lúc ấy chữ Quốc ngữ chưa phát triển mạnh vì người trong Nam chỉ nhắm học cho rành tiếng Pháp để đi Pháp du học mà thôi. Hồi đó người Pháp chưa chiếm tới Bắc Kỳ nên sự nghiệp của ông Trương Vĩnh Ký bị giới hạn trong vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh. Tuy vậy, nhờ công việc làm của ông mà chữ quốc ngữ được trở nên sáng sủa hơn nhiều và việc làm của ông cũng đã đặt nền móng cho sự phát triển chữ Quốc ngữ sau nầy..
Mãi về sau khi Pháp đã chiếm và bình định miền Bắc xong bèn cho mở trường học và cho ra báo, lúc ấy chữ Quốc ngữ mới trở thành phổ biến trên cả nước và một người có công lớn trong việc “dùng thứ chữ dễ học nhất làm cỗ xe truyền bá tư tưởng trong phái bình dân” ở miền Bắc là ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh xuất thân từ một gia đình nghèo và đông con, nên không được đi học đàng hòang dù ông rất hiếu học. Mới 8 tuổi đã phải đi làm một chân kéo quạt cho trường Thông Ngôn của Pháp ở Hànội. Cậu bé kéo quạt ngồi ở cuối lớp, vừa kéo hai hàng quạt để quạt mát đám học trò vừa tò mò nghe thầy giảng bài; học sinh nghe gì thì cậu cũng nghe nấy. Sự chăm chú theo dõi bài học của cậu đã lọt vào mắt thầy d’Argence. Tới ngày thi mãn khóa ông cho cậu kéo quạt thi... thử! Không ngờ cậu lại đậu thứ 12 trong số 40 học sinh! Thầy d’Argence bèn đặc cách xin cho cậu học bổng và nhận cậu làm học sinh chánh thức của khóa học tiếp theo. Và khi thi ra trường học viên Nguyễn Văn Vĩnh đã đậu thủ khoa khóa đó và được tuyển đi làm thông ngôn cho tòa sứ Lào Cai lúc hãy còn vị thành niên mới vừa 14 tuồi.
Tại Lào Cai cậu Vĩnh được làm thông ngôn cho đoàn chuyên viên nghiên cứu xây đường sắt Hải Phòng-Hà Nội-Lào Cai-Vân Nam nên một chân trời mới đã mở ra trước mắt cậu Vĩnh. Cậu vừa làm việc vừa say mê học hỏi bất cứ cái gì mới lạ nên được các chuyên gia người Pháp thương mến và giúp đỡ rất nhiều. Sau một năm ở Lào Cai, đám chuyên gia này được chuyển về làm việc ở bến cảng Hải Phòng và họ đã xin đem theo cậu thông ngôn NguyễnVăn Vĩnh.
Khi làm việc tại Hải Phòng một cơ duyên đã tới với cậu thông ngôn hiếu học: một thủy thủ người Pháp gạ bán cho cậu một bộ sách “Tự học chương trình Trung Học Phổ Thông” với giá 15 đồng. Món tiền tuy là rất lớn đối với cậu (một nửa tháng lương!) nhưng cậu cũng dốc túi để đổi lấy bộ sách. Từ ngày mua được bộ sách trên, ngoài giờ làm việc ra cậu vùi đầu vào tự học, và trong khoảng hai năm cậu đã học hết chương trình phổ thông Pháp, làm hết cái bài tập ở trong bộ sách. Cậu thích các môn triết học, chính trị và văn học..., đã lập danh mục những sách cần phải gửi mua để học thêm. Sau năm năm ở Hải Phòng cậu đã dành dụm mua được một rương đầy sách mà đi đâu cậu cũng mang theo.
Sau khi đã tự học hết chương trình trung học Pháp và đọc những sách chính trị, triết học và tiểu thuyết văn học Pháp, và sau khi hàng ngày được đọc sách báo và tạp chí nước ngoài đủ các loại mượn của các thủy thủ nước ngoài, Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy là dân tộc An-nam không có chữ riêng của mình mà phải dùng chữ nôm là loại chữ bắt chước chữ nho là một điều không thể chấp nhận được. Theo gương trong Nam, ý nghĩ phải dùng và phát triển chữ Quốc ngữ dễ học để giúp cho nhiều người học hầu mở mang kiến thức đã nhen nhúm trong đầu ông. Với ý nghĩ đó Nguyễn Văn Vĩnh thử dịch những bài văn hay của Pháp ra chữ Quốc ngữ, bắt đầu bằng những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine, rồi đến những chuyện trẻ con của Perrault, v.v... Nhưng lúc bấy giờ chưa có báo in bằng Quốc ngữ, chỉ mới có những tờ thông báo của tòa sứ in ra một nửa bằng chữ nho và một nửa bằng chữ Quốc Ngữ rất thô thiển. Ở Hải Phòng lúc bấy giờ chỉ mới có một tờ báo là “Courrier de HaiPhong” và Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu tập viết báo bằng tiếng Pháp. Những bài đầu tay là những tin ngắn nói về tình hình trong cảng, tình hình xây dựng cảng, xây dựng nhà máy và thành phố. Những bài ông viết đều được báo “Courrier de HaiPhong” nhận in. Sau những bản tin thông thường đó, ông tiến tới viết những bài nói về sinh hoạt và nếp sống của người dân thành phố cảng... Ông trở thành cộng tác viên An Nam đầu tiên của tờ báo “Courrier de Haiphong”. Như vậy ông Nguyễn Văn Vĩnh đã chính thức bước vào nghề làm báo lúc mới được 17 tuổi (1899). Nhưng phải chờ đến năm 1907 sau chuyến được gởi sang Pháp dự triển lãm Marseille và sau khi được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí của Pháp ông mới thực sự dấn thân vào nghiệp làm báo và in ấn, một nghiệp dĩ đã theo ông đến khi lìa đời. Ông đã chết một cách bi thương trên dòng sông Sepole thuộc Nam Lào, khi chết trên tay vẫn còn cầm bút và một cuốn sổ tay ghi chép cuộc hành trình đi tìm vàng của ông.
Sau khi dự triển lãm ở Pháp trở về Việt Nam, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Sau đó, ông lần lượt chủ trương các tờ báo sau này sẽ đi vào lịch sử báo chí nước nhà: Notre Journal (1908), Notre Revue, Lục tỉnh Tân văn (1910), Đông Dương Tạp chí (1913), Trung Bắc Tân Văn (1915), Annam Nouveau (1931).... Ngòai ra, ông là người đầu tiên dịch ra chữ Quốc ngữ các tác phẩm của các đại văn hào Pháp và cũng là người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” của Nguyễn Du sang tiếng Pháp.
Khi bắt tay vào công việc dịch thuật, ông Nguyễn Văn Vĩnh mới thấy là chữ Quốc ngữ còn quá non nớt và mới mẻ, văn phạm hãy còn rất thô thiển, và chánh tả cũng chưa rõ ràng vì có quá nhiều khác biệt trong cách phát âm giữa các địa phương trong xứ. Do đó, qua các bài báo và sách vở dịch thuật ông đã hô hào và cổ động cho việc thống nhứt ngôn ngữ, nhứt là sự tương nhượng tuân thủ những qui định về chánh tả giữa hai miền Bắc kỳ và Nam kỳ. Ngoài ra, ông cũng cổ súy cho sự cần thiết phải luôn tạo ra những từ mới để chữ Quốc ngữ ngày một phong phú và chánh xác hơn.
Ta hãy đọc quan điểm của ông Vĩnh về vấn đề này: “Chúng tôi làm việc để đem lại cho ngôn ngữ quốc gia của chúng ta sự sáng sủa và chính xác mà chúng tôi đã thấy được trong tiếng Pháp... Có nghĩa là ngôn ngữ quốc gia của chúng ta chưa được thật chuẩn và nếu chúng'tôi có ý định ngay hôm nay viết bằng tiếng An Nam nhiều điều mà chưa bao giờ được diễn giải bằng thứ tiếng này... (thì) chính họ là những người phải nói lên về những kết quả của thử thách của chúng tôi và không phải bản thân chúng tôi làm việc đó.....tôi chỉ tham gia vào một phần rất nhỏ để tạo thành một ngôn ngữ An-nam mới... Để hoàn thành công việc này đòi hỏi còn phải cố gắng liên tục và sáng suốt của nhiều thế hệ khác nữa, để có thể đem lại cho ngôn ngữ đó một trình độ chính xác đầy đủ...” (L’Annam Nouveau, số 466 ngày 1/8/1935).
Suốt cuộc đời làm báo cũng như dịch thuật của ông trước sau cũng chỉ xoáy vào cái mục đích thống nhất chữ viết và ngôn ngữ trên toàn cõi Việt Nam, rồi dùng chữ Quốc ngữ để mở mang dân trí... “Người An-nam nên viết chữ An-nam” là khẩu hiệu được ông nêu cao và cổ xúy trong công cuộc phát triển chữ Quốc ngữ. Trong một bái báo khác đăng trên Đăng Cổ Tùng Báo số ra mắt tháng 3 năm 1907, ông cho rằng so với chữ nôm thì chữ Quốc ngữ “có mẹo mực, ba là ba, bốn là bốn, không thể sai được mà học dễ biết là bao nhiêu! Sáng ý thì chỉ vài ngày, ngu đần thì trong một tháng cũng phải thông”. Vì chữ Quốc ngữ dễ học như vậy nên ông đã kêu gọi các nhà thức giả tiếp tay trong việc phổ biến này: “Ông nào có tài, làm sách, làm chuyện hay bây giờ, nên làm bằng chữ quốc-ngữ. Có nhiều sách hay tất tiếng nôm cũng hóa ra hay. Ngẫm mà xem! Thơ phú đời sau dùng điển Thuý-Kiều, Nhị-Độ-Mai, hay là điển trong các sách hay khác, sắp làm ra, kém chi sâu-sắc bằng điển lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh.”
Ngoài việc cổ xúy ông và đồng sự đã không ngừng đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền quốc văn cho dân tộc Việt Nam. Có thể nói phát triển và hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ là đường lối làm cách mạng dân tộc của ông. Theo ông thì mở mang dân trí là con đường khả thi nhất vì khi trình độ dân trí đủ cao thì người dân sẽ tự khắc hiểu được quyền công dân mà đứng lên đòi lại.
Để phát triển chữ Quốc Ngữ và vì tủ sách văn học bằng chữ Quốc Ngữ lúc ấy chưa có gì nên ông đã bỏ ra rất nhiều công sức cho việc dịch thuật các tác phẩm văn học của Pháp sang chữ Quốc Ngữ. Có thể nói dịch thuật là phần quan trọng nhất trong văn nghiệp của ông. Ông Nguyễn Văn Vĩnh xứng đáng là nhà quán quân trong công việc dịch thuật ở nước ta hồi đầu thế kỷ 20. Trong vòng 10 năm ông đã hoàn thành được một khối lượng dịch thuật đồ sộ. Truyện Kim-Vân-Kiều đã được ông dịch sang tiếng Pháp tới ba lần, với đầy đủ chú thích tỉ mỉ. Ông đã dịch những tác phẩm Tầu như Xích Bích và Hậu Xích Bích sang tiếng Pháp. Còn dịch từ Pháp ngữ sang Việt ngữ thì rất nhiều, chỉ xin kể qua tập thơ Ngụ Ngôn của La Fontaine, Chuyện Trẻ Con của Perrault, Qui-li-ve phiêu-lưu ký Của J.Swift, Tê-lê-mác phiêu lưu ký của Fénelon, Robinson Crusoé của Daniel De Foe, Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ của Alexandre Dumas, Gil Blas de Santillane của Le Sage, Miếng Da Lừa của Balzac, Mai-nương Lệ Cốt của Abbé Prévost, Những Kẻ Khốn Nạn của Victor Hugo, và những hài kịch của Molière v.v...
Nhưng cái văn nghiệp lớn nhứt của ông Nguyễn Văn Vĩnh là đã biến cái thứ chữ mới mẻ gọi là chữ Quốc-ngữ, lúc đó đang chập chững vào đời, một thứ tiếng độc âm, một thứ chữ mới được sáng tạo ra chỉ để trao đổi những ý kiến đơn sơ nhất..., thành một thứ chữ có đủ khả năng diễn đạt mọi khía cạnh của cuộc sống. Ông đã thật sự là một người thợ kim hoàn kiên nhẫn, đã mài dũa một thứ chữ chưa thành hình ấy thành một ngôn ngữ viết bóng bẩy và trơn tru phản ánh lên được những mầu sắc tinh vi nhất của ánh sáng mặt trời và dần dần biến nó thành chữ viết của dân tộc ta, riêng của dân tộc ta, giúp dân tộc ta có được một nền văn học độc đáo của riêng mình. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đã nói một câu bất hủ, hồi ấy thường in ở các bìa sách do ông xuất bản: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ'. Do đó, ông và lớp trí thức thế hệ ông đã làm cuộc cách mạng chữ viết thành công hồi đầu thế kỷ trước. Chữ quốc ngữ đã đánh bại chữ Hán và chữ Nôm để trở thành chữ viết của toàn dân tộc Việt Nam.
Trong công cuộc phát triển chữ Quốc ngữ, ông là chủ bút các báo tiếng Việt đầu tiên ở Bắc Kỳ dùng chữ quốc ngữ như tờ Đăng cổ Tùng báo, Lục tỉnh Tân văn, Đông Dương Tạp chí, Trung Bắc Tân văn và tờ Học báo. Ông đã không ngừng dùng các phương tiện truyên thông này để cổ xúy cho việc dùng chữ Quốc ngữ. Ông cũng là chủ bút các báo tiếng Pháp như tờ Notre Journal, Notre Revue và L’Annam Nouveau; đồng thời làm giám đốc nhà xuất bản Âu Tây Tư tưởng để in và phổ biến các sách viết bằng chữ Quốc Ngữ.
Ngoài ra, ông còn tham gia tích cực vào công cuộc nâng cao dân trí như mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục nơi mỗi tuần ông dành mấy tối để nói chuyện hoặc dạy tiếng Pháp, dạy chữ Quốc ngữ cho mọi người. Do dạy học ở đó mà ông đã thân với các người đồng chí hướng trong việc phát triển chữ Quốc Ngữ như các ông Phan Kế bính, Nguyễn Đỗ Mục, Hoàng Tăng Bí, Dương Phượng Dực, v.v... là những người sau này cộng tác với ông làm báo Đăng Cổ Tùng Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí và Trung Bắc Tân Văn. Ông cũng lập hội Trí Tri trong đó ông làm trưởng ban diễn thuyết cùng với các ông Nghiêm Xuân Quảng và Trần Tăng Bình... Mỗi tuần hội tổ chức một buổi nói chuyện và giảng sách. Ông Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ nói chuyện mà còn hướng dẫn các học viên tìm sách tham khảo, giải đáp bằng thư những điều thắc mắc của hội viên, những điều mà bản thân ông cũng phải tham khảo thêm.
Tất cả sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Nguyễn Văn Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đã đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ Quốc ngữ. Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi Hương - thi Hội -thi Đình ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. Và cuối cùng vào ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau hơn ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt - La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với hệ chữ viết của Trung Hoa, chánh thức chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ. Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa có tánh cách cách mạng vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, để được nhìn nhận như hiện nay, ông Nguyễn Văn Vĩnh và gia đình đã chịu không ít bi kịch bị hiểu lầm. Vì sớm nhận thấy rằng nếu một dân tộc có dân trí đủ cao thì tức khắc dân tộc sẽ “trồi đầu lên được” nên ông Nguyễn Văn Vĩnh đã tự gắn cho mình trách nhiệm phải phát triển chữ Quốc Ngữ và dùng chữ Quốc Ngữ để nâng cao dân trí. Ông Nguyễn Văn Vĩnh tự trưởng thành từ tiếng Pháp. Cơ duyên đó đưa ông đến việc tiếp xúc với chữ Quốc Ngữ và ngộ ra rằng đó là công cụ văn hóa quan trọng nhất trên đường tiến hóa theo mô hình phương Tây, ngay khi người Việt còn trong thân phận dân thuộc địa Pháp. Cho nên trong suốt 30 năm, từ 1907 tới ngày ông từ giã cõi trần, ông đã nhẫn nhục theo Pháp để thực hiện cuộc Cách Mạng Chữ Quốc Ngữ.
Tuy theo Pháp nhưng ông lại là người không khuất phục trước thực dân Pháp nên ông đã từ bỏ quan trường để ra làm báo, viết sách. Ông Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt^ Nam đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng. Và ông cũng đã cùng với bốn người Pháp khác viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.
Sau bao nhiêu năm chịu mang nhiều tai tiếng, lịch sử và văn học Việt Nam ngày nay đã trả lại cho ông một vị thế xứng đáng với những công trình ông đã đóng góp. Cuộc đời hơn 50 năm của ông Nguyễn Văn Vĩnh là một chuỗi ngày hoạt động mê mải trong lĩnh vực phát triển văn hóa, đặc biệt là phát triển chữ Quốc Ngữ. Ông cũng đã tự nguyện lấy cái sự hiểu biết, sự học của mình để dựng một cây cầu cho sự giao lưu hiểu biết lẫn nhau giữa hai nền văn hóa Đông - Tây. Và ông - giống như con ve sầu kia trong bài thơ ngụ ngôn nổi tiếng của La Fontaine do chính ông dịch - đã gồng mình lên mà “ve ve” trên cái cầu giao lưu ấy, trong một hoàn cảnh “nguồn cơn thật bối rối” để phụng sự cho công cuộc nâng cao dân trí và phát triển chữ Quốc Ngữ. Chánh vì thế người ta có thể gọi ông là nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật, thậm chí nhà tư tưởng mà vẫn không thấy có gì là quá. Những việc ấy, khi đặt đúng thời điểm đầu thế kỷ 20, phải được coi là những công việc thế kỷ mà lịch sử chỉ chọn đặt lên vai một số ít người khai sáng. Ông Nguyễn Văn Vĩnh chính là một trong số những người khai sáng đó./.