|
Võ Thu Tịnh
|
Về
ý nghĩa của tục ngữ, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng
Hàm đã nhận xét: “Các câu tục ngữ là do
những điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô
học cũng có một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời...” (1)
Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn
học sử giản ước tân biên đã ghi: “Tục
ngữ là kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết của người xưa về vũ trụ cũng như về
nhân sinh....Có thể nói đó là một quyển sách khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới
bình dân từ xưa đến nay” (2)
Tóm lại, theo các nhà biên khảo này thì các câu tục ngữ là một “quyển sách khôn, một kho tàng kinh nghiệm và
hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh” giúp cho dân gian ta “có được một tri thức thông thường để làm ăn
và cư xử ở đời”.
Trong các tục ngữ của chúng tôi đã sưu tập, ngoài những câu nói về “mưu
sinh” và “tâm lý người đời” ra (như canh nông, thời tiết, nghề nghiệp, phong
tục, luân lý, lý sự đương nhiên..., mà ở văn chương truyền khẩu nước nào cũng có),
thì phần nhiều là những câu về “cái biết”, về “cái khôn” của người đời, rồi đến
những câu về “vũ trụ” (như đạo Trời, vận mệnh con người, Phật, tu hành, phúc đức...),
về “nhân sinh” (như trung với vua, quan lại tham nhũng, các kinh nghiệm ứng xử
khôn ngoan giữa xã hội với nhau).
Chúng tôi nghĩ rằng đây là cẩm nang, là bản chúc thư của tiền nhân, truyền
lại cho con cháu cả một “triết lý dân tộc” xây dựng trên cái “biết” và cái
“khôn”, để cư xử cho đúng “đạo làm người”, theo “Lẽ Trời và Tình người”. Tuy tiền
nhân không nói rõ ra, nhưng con cháu chúng ta phải hiểu rằng dụng ý của các
Ngài không ngoài mục đích tối thượng là chỉ đường cho chúng ta “tranh đấu bảo
tồn nòi giống, đất nước, chống xâm lăng cho khỏi bị đồng hóa, diệt chủng”.
Các nhà Nho, các thành phần sang giàu, các thị dân có những sách vở của
Nho giáo để căn cứ vào đấy mà ứng xử với nhau. Còn dân gian nông thôn không có
chữ, nên trong sự giao thiệp, ứng xử thường ngày, chỉ căn cứ vào các câu tục
ngữ, là kho tàng hiểu biết, khôn ngoan, kinh nghiệm mà tiền nhân đã truyền
miệng lại cho chúng ta. Tục ngữ nước ta rất nhiều, không có một trường hợp nào
mà dân gian không có thể dùng một vài câu tục ngữ để minh chứng cho thái độ, hành vi
của mình.
Ở bài Rtrémiologie Vietnamienne et comparée (“Tục ngữ học Việt Nam và đối chiếu”), học giả Thái Văn
Kiểm có kể lại câu chuyện về công dụng của tục ngữ trong một việc tranh chấp
giữa dân gian với nhau, tóm lược như sau:
“Trước đây có một lái buôn bán cho người Việt Thượng một cái áo bằng vải bông giá 50 đồng,
trả được 30, còn thiếu 20 đồng, thì người Thượng bỏ lên núi không thấy quay lại
thanh toán. Sau một thời gian khá lâu, người lái buôn gặp lại người Thượng
xuống đi chợ, liền túm lấy dẫn dến viên cai trị nguời Pháp để kiện. Người
Thượng nói áo mua, vải không tốt, không xứng 50 đồng, nay y chịu trả thêm
10 đồng nữa mà thôi. Còn người lái buôn nhất định đòi cho được 20.
Viên cai trị Pháp xét việc cũng không có gì rắc rối, mà y lại nói tiếng Việc và
tiếng Thượng thông thạo, thấy không cần gọi viên chức Việt đến giúp. Không ngờ
suốt cả buổi mai y giải thích luật lệ, khuyên dụ đủ mọi cách, mà cả hai bên
nguyên bị vẫn không ai chịu nghe theo. Cùng lắm, y cho gọi viên chức Việt đến.
Vỉên chức Việt chỉ nói qua nói lại có mấy phút mà người lái buôn bằng
lòng nhận 10 đồng. Viên cai trị Pháp lấy làm lạ, hỏi, thì viên chức Việt kế lại
là đã dùng các câu thành ngữ, tục ngữ để nói với người lái buôn rằng: “Anh cho
người Thượng mặc chịu như vậy cũng như “thả
trâu vô rú”, nay được người Thượng bằng lòng trả thêm 10 đồng, là như “của đổ mà hốt” lại thôi. Xưa nay anh có
thấy ai hốt của rơi lại cho đủ không? ông bà ta thường nói: “gạo đổ lượm chẳng đầy thúng”. Bây giờ họ
bằng lòng trả 10 đồng là được rồi, chớ bày chuyện kiện cáo vì tục ngữ ta có
câu: “Được kiện mười bốn quan năm, thua
kiện mười lăm quan chẵn”. Khôn dại, hơn thiệt thế nào, là một thương gia,
anh hẳn thấy rõ”. Người lái buôn cho là phải, nên nghe theo” (3)
1 Khôn dại trong thi ca
Vấn đề “khôn dại” rất quan trọng trong việc xử thế, cho nên trong văn thơ
của các bậc thức giả xưa nay, văn thường thấy được nói đến.
Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi, trong Quốc
âm thi tập, đã nêu lên vấn đề “khôn dại” này:
“Chẳng khôn chằng dại, chỉ ương ương,
Chẳng dại người hòa
(rất cả) lại chẳng thương”.
Đại ý nói rằng nếu ta chẳng
chịu nhận là dại thì tất cả mọi người chẳng ai thương mình.
Đến thế kỉ thứ XVI, trong Bạch Vân am quốc ngữ thi tập, Trạng
Trình cũng phân biệt hai chữ “khôn dại” như sau:
“Khôn thì người dái
(sợ, nể), dại thì thương,
Nhấn bào bao nhiêu người ở thế,
Chẳng khôn đành dở, chớ ương ương”..
Nghĩa là: Khôn thì thật khôn cho người ta sợ, dại thì rõ ràng dại đi cho
người ta thương, nếu không khôn được thì đành chịu dại, chớ không nên ương
ngạnh.
Vào cuối thế kỉ thứ XIX, khi nguờỉ Pháp bắt đầu đặt quyền thống trị ở
nước ta, Nguyễn Khuyến cáo bệnh từ quan, làm ra vẻ ngây ngô để khỏi bị ép ra
làm việc lại. Ở Nam Định thời bấy giờ, có một người đàn bà tên là Mẹ Mốc, chồng
đi mất tích (…), bà giả điên giả cuồng và hủy hoại nhan sắc để khỏi bị chọc
ghẹo. Nguyễn Khuyến thấy tâm sự của bà giống với tâm sự của mình, nên cảm tác
ra một bài hát nói, có câu kết như sau:
“Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
Đập tai, ngành mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ,
rằng khờ cũng thây,
Khôn kia dễ bán dại nấy” (4)
Rồi đến đầu thế kỉ thứ XX, Trần Thế Xương cũng than lên:
“Thiên hạ đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại.
Dại chốn văn chương, ấy dại khôn”.
Vấn đề “khôn, dại” này, từ thời xa xưa, ở Trung Hoa, Khổng Tử (551 - 479)
cũng đã nêu ra để giảng dạy cho các môn đệ, rằng: “Ninh Vỗ Tử, khi trong nước
có đạo lý thì ông ta tỏ ra có tài trí (để ra làm việc), nhưng gặp khi chính
quyền vô đạo, thì ông làm như ngu dại (để khỏi bị ép ra cộng tác, tiếp tay với
quân cường bạo sát hại nhân dân). Cái khôn của ông nhiều người làm được, đến
như cái ngu của ông thì không mấy ai bì kịp” (5)
2. Khôn dại trong tục ngữ
Trong các câu tục ngữ của ta, dân gian đã nói nhiêu về “khôn, dại”, và
đặc biệt, cũng có một câu giống như các câu thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh
Khiêm vừa thấy trên đây:
“Khôn cho
người dái (nể, sợ), dại
cho người thương
Dở dở
ương ương, tổ cho người ta ghét”.
Nhưng vì sao dân ta cho rằng cần phải phân biệt dứt khoát “khôn”, “dại”
như thế?
Nguyên là trải qua bao thế kỉ, dân tộc Việt thường xuyên phải chọn lựa
giữa hai con đường: Đầu hàng, cộng tác với địch, hay kháng chiến chống lại với
ngoại xâm và bạo quyền độc tài tàn ác. Con đường nào là khôn? Con đường nào là
dại?
Nhưng khôn hay dại, thường bị các thành kiến chủ quan thiên lệch của
người đời chi phối. Lắm khi, điều mà ta cho là khôn, thì người khác lại cho là
dại, hay ngược lại, như trong cổ tích “Trâu rừng với trâu nhà”. Trâu rừng chê
trâu nhà là dại, vì để cho chủ bắt làm việc cực nhọc, rồi cuối cùng cũng bị chủ
làm thịt, và cho mình là khôn vì đã chọn cuộc sống tự do, không bị cưỡng bách
lao lực. Còn trâu nhà thì chê lại trâu rừng là dại, vì ở rừng bị đói khát, nhất
định có ngày sẽ bị beo cọp ăn thịt, và cho mình là khôn vì thường ngày có cỏ để
ăn, có nhà để ở, khỏi bị dãi dầu mưa nắng, khỏi bị thú dữ sát hại. Bên nào cũng
tự cho mình là khôn hơn bên kia, và cảnh cáo lẫn nhau: “Khôn thì sống, mống (dại) thì chết” (Truyện cổ nước Nam, Nguyễn Văn
Ngoc, tập 2, tóm lược truyện số 28).
Trong suốt bao nhiêu thế kỉ bị ngoại thuộc hay hay bị kìm hãm dưới các
chế độ bạo ngược, cái “khôn thật”, “khôn giả”, và cái “dại thật”, “dại giả”
thường bị lẫn lộn với nhau.
Tuy vậy, dân gian không phải ỉà không phân biệt được, song không dám nói
rõ ra, mà trái lại, thường còn làm như dại khờ không biết đến. Cũng như Nguyễn
Khuyến, dân gian đã có câu kín đáo tự hào rằng:
“Rù đầu, giả dại, làm ngây,
Khôn kia dễ bán dại nàv mà ăn”.
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời của Lê Văn Siêu, tác giả Văn minh Việt
Nam,
để giải thích thêm về vấn đề này:
“Làm thế nào khác hơn được? khi một dân tộc bị sống trong hoàn cảnh đe
dọa diệt tộc thường xuyên, bởi một kẻ mạnh gấp trăm ngàn lần mình, ở ngay bên
nách mình, nếu chẳng nghĩ tha thiết đến sự sống còn, đến con cái nối nghiệp,
thì chỉ sơ sẩy để đầu óc viển vông một chút thôi, cũng đủ mất tích vào trong
bản đồ của địch thủ. Cho nên Trạng Trình, một vị hiền triết được dân chúng kính
trọng là có tài tiên tri, đã chỉ dạy có một điều rất gọn:
“Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.
Biết tương quan lực lượng giữa mình và người, biết tâm lý khát vọng giữa mình
và người, biết dằn lòng chờ cơ hội thuận tiện để thực hiện ý định, biết giả dối
để che đậy bí mật hành động cho khỏi hại, biết cương quyết tiến lui, biết cứng
mềm tùy lúc, biết thích ứng hoàn cành để sống còn, biết lẩn tránh mũi dùi của
địch... toàn là những cái biết rất thực tế, có thể kiểm điểm lại qua mọi sự
kiện lịch sử, và có thể thấy rất rõ ràng là chính nhờ cái biết ấy mà nước Việt
Nam chúng ta còn được tới ngày nay”.
(6) “Khôn cũng chết “ như Trạng Trinh nói, đó là cái “khôn giả”; và “dại
cũng chết” như Trạng Trình nói, đó là cái “dại thật”. Chi ai biết phân biệt
được “khôn thật” với “khôn giả”, “dại thật” với “dại giả”, thì mới có thể sống
được mà thôi.
Cũng như Trạng Trình, tục ngữ đã kết thúc rằng:
“Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”
Xem như thế, “biết” là điều kiện chính yếu để biện biệt cái “khôn” với
cái “dại”, giúp cho chúng ta có thể thực hiện được “đạo làm người”, giúp cho
dân và nước Việt Nam chúng ta khỏi bị diệt vong.
Cho nên tưởng trước hết, chúng ta nên tìm hiểu qua các câu tục ngữ: “Biết
là thế nào?” và “Khôn là thế nào?”
A) “Biết” là thế nào?
1. Biết là suy xét cho đúng phép: suy chín, xét xa, biết rõ gốc ngọn, vắn
dài, đắn đo nặng nhẹ, nông sâu:
“Làm người suy chín, xét xa,
Cho tường gốc ngọn, chơ ra vân dài”
... Làm người phái đắn, phải đo,
Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu”.
Biết suy nghĩ rất quan trọng, cho nên dân gian thường nhắc đi nhắc lại
cho chúng ta ghi nhớ rằng:
“Làm người mà chẳng biết suy,
Đến khi nghĩ lại, còn gì là thân”
2. Biết còn là suy đoán phân biệt để nhận diện đúng sự vật. Suy đoán là sở
trường cùa những câu đố.
Câu đố - Câu đố có hình thức một câu gọn ngắn có vần hay không có vần, có
bản văn nhất định, nhưng câu đố cũng có hình thức một chuyên kể ngắn, không có
lời văn nhất định. Tuy vậy vì nội dung hoàn toàn thuộc về trí tuệ, suy luận,
nên chúng tôi vẫn xem câu đố như là một loại tục ngữ.
Câu đố thường dùng để mua vui, giải trí sau những giờ làm việc mệt nhọc,
nhưng câu đố cũng góp phần không nhỏ với tục ngữ để luyện tập một cách linh
đông, tinh thần và lề lối suy đoán, biên biệt cho dân gian. Ở đây chúng tôi
không thể đi sau vào việc nghiên cứu toàn thể các câu đố, mà chỉ dẫn ra một
số câu đố liên hệ hơn cả với cách suy đoán biện biệt, bổ túc thêm về cái “biết”
trong các câu tục ngữ mà thôi. Chúng tôi chú trọng nhiều đến các câu đố gọi là
đố mẹo, nghĩa là dùng những cách kín
đáo, khéo léo để “gài bẫy”, làm cho người nghe hoặc không thấy được, hoặc hiểu
sai lệch chủ đề, nên không biết đâu mà suy đoán giải đáp.
a) Về loại câu đố mẹo này, trước hết, có những câu đố “vừa đố vừa giảng”
rất dung dị, song người nghe qua tưởng lầm là vấn đề khó khăn, rắc rối, nên suy
nghĩ xa xôi, đi tìm lời giải ở ngoài lời đố, không ngờ lời giảng lại nằm sờ sờ
trong câu đố rồi:
“Con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt, rõ ràng con cua”.
“Tổ kiến, kiến tổ, vừa đố vừa giảng”.
Đố: Là những con gì, vật gì?
Giải: Là con cua và tổ kiến (có ghi rõ trong các lời đố).
Người Pháp cũng có một câu đố mẹo như thế: “Quelle est la couleur du
cheval blanc d’Henri IV?” (Màu lông con ngựa trắng của Henri IV là màu gi?).
Giải: Màu trắng (có ghi rõ trong lời đố).
b). Có các câu đố mẹo khác, trong lời đố cố tình làm lẫn lộn các ý niệm “đồng
thời” với “lần lượt”, “trọng lượng” với “khối lượng” khiến cho người nghe nào
sơ ý, hấp tấp sẽ giải đáp sai:
“Luộc 1 cái trứng 4 phút là chín, vậy muốn luộc chín 8 cái trứng phải tốn
bao nhiêu phút?”
“Một tạ sắt vớí một tạ gòn, tạ nào nặng hơn tạ nào?”
Giải: Luộc chín 8 quả trứng cũng 4 phút thôi (bỏ 8 trứng chung vào một nồi
mà luộc đồng thời với nhau). Một tạ sắt và một tạ gòn, không tạ nào nặng hơn tạ
nào. (Vì tạ là 100 cân, thì tạ sắt cũng năng 100 cân, tạ gòn cũng năng 100 cân
như nhau).
c). Có câu đố mẹo cố tình làm cho lẫn lộn các ý nghĩa (đồng âm dị nghĩa)
để đánh lạc hướng người nghe:
“Trục trục như con chó thui,
Chín mắt, chín mũi, chín đầu, chín đuôi”.
Đố là con vật gi?
Giải: Con chó thui (Vừa đố vừa giảng; chữ “chín” ở câu này không phải là
số 9, mà nghĩa là “thui chín , trái nghĩa với “sống”)
d). Cũng có câu đố mẹo đã cố tình sắp đặt sẵn một câu giải đáp khôi hài
nghe qua cũng hợp lý, mà thật ra thì “lãng nhách” (trả lời không đâu vào đâu
cả) và ngộ nghĩnh, để “chọc quê” người giải câu đố:
“Vì sao khi hành nghề, mọi tên
ăn cắp, móc túi phải nhìn trước rồi nhìn sau?”.
Giải: Vì hắn không thể nhìn trước và nhìn sau cùng một lượt.
đ). Đặc biệt có câu đố mà có thể có nhiều lời giải đúng, như:
“Con gì đứng thì thấp, ngồi thì cao?”
Trong sách, thấy ghi lời giải đáp là: “Con chó”. Nhưng thật ra, lời giải
có thể là “con mèo” vì mèo cũng “đứng thì thấp, ngồi thì cao”, như con chó. Mà
con beo, con cọp cũng vậy.
Về “đố toán số” cũng có trường hợp một câu đố mà có thể có vô số lời giải
đúng. Chẳng hạn như:
“Ba người mua trứng. Người thứ nhất mua nửa giỏ và nửa quả, người thứ hai
cũng thế (mua nửa số trứng còn lại trong giỏ và nửa quả). Người thứ ba mua số trứng
còn lại. Hỏi số trứng là bao nhiêu?”.
Trong sách chỉ thấy ghi có mỗi một lời giải như sau: Số trứng trong giỏ
là 7, rồi giảng thêm:
Người thứ
nhất: Ba quả rưỡi + nửa quả = 4 quả Người thứ hai : (còn lại: 7 - 4 = 3. Phân
nửa của 3 = 1 quả rưởi) một quả rưỡi + nửa quả = 2 quả.
Người thứ ba: (7 - 4 - 2) = 1 quả.
Nhưng thật ra có vô số lời giải đúng khác nữa, như số trứng trong giỏ là
11, 15,19,23, 27... chẳng hạn.
Cái mẹo trong câu đố này là đưa ra việc mua thêm “nửa quả” trứng.
Đó là điều trên thực tế không thể làm được. Điều nầy làm cho người giải
câu đố bị hoang mang. Cho nên trước tiên, phải tìm hiểu vì sao lại có việc mua
thêm “nửa quả”, thì mới tiếp tục suy đoán được.
Là vì số trứng trong giỏ là một số lẻ, nếu chia thành hai phần đều nhau
(nửa giỏ) thì, trên lý thuyết kế toán, trong mỗi phần sẽ có “nửa quả”. Cho tiện
việc mua bán, người mua, ngoài phần nửa giỏ trứng ra, lại mua thêm “nửa quả”
nữa, cho có được trọn y một quả.
Như vậy, số trứng trong giỏ phải là một số lẻ. Từ điều kiện tiên quyết này,
người giải câu đố mò mẫm với những con số
lẻ, từ số nhỏ đến số lớn, từ 1,3,5,7,9,11 đến 27 chẳng hạn… thì thấy các con số
đáp ứng với các tiêu chuẩn trong câu đố, là 7,11,15,19,23,27.
Và nhận thấy
thêm rằng: lấy số 7 mà cộng với 4, hay cộng với các bội số của 4 (cho đến vô tận),
thì chúng ta sẽ có rất có vô số lời giải đúng. Cái hay của câu đố này là ở chỗ
giúp cho ta hiểu được rằng:
1. Cần đối chiếu với thực tế mà kiểm soát sự việc mới có thể suy đoán
hữu hiệu.
2. Thường không phải chỉ có một lời giải (của mình) là đúng mà thôi, cũng
có nhiều lời giải khác đúng nữa. Phải có
sự “truyền thông” với nhau giữa những thành phần nhân loại.
e). Để kết thúc phần này, chúng tôi xin dẫn ra một vài câu “đố tục, giảng
thanh”, chẳng hạn như:
“Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng
“Khom lưng, uốn gối, cả đời cong
“Lưỡi to mà sức ăn ra khoét,
“Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?”
Câu đố nghe qua. thì thấy
rõ ràng là một thóa mạ một ông quan “có hành động xấu xa lạ lùng, bên trên thì
cả đời khom lưng, uốn gối nịnh bợ, phía dưới thì ra sức hà hiếp, đục khoét dân
đen, thử hỏi cái kiếp nô lệ theo đuôi ấy, tự mình có thấy hổ thẹn không?”.
Lời chê bai, hạch tội có phần tục tằn, sống sượng, nhưng khi giảng giải
khác đi, thì nghe thanh nhã:
Câu nầy tả cái cày: “Cái cày hình dáng không đẹp, cán uốn cong, lưỡi cày to, bao giờ cũng phải theo
đuôi con trâu để cày”. Rồi dân gian, nhân cách hóa cái cày, mà lên tiếng hỏi
ràng: “Sống cuộc đời theo đuôi con trâu như vậy, “quan anh” có thẹn không?”
(Chữ “quan” trong “quan anh”, chỉ “người có địa vị không phải đi phu, tạp dịch
trong làng, dưới thời Pháp thuộc” (theo Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Lân, 1991).
Kinh nghiệm: Một chuyện mới nghe qua cho là chướng tai, biết đâu nếu đứng
vào một lập truờng nào khác mà nhìn, thì không phải vậy.
Dân gian biết dùng lối vừa đùa cợt giải trí, vừa đào luyện cho nhau về
suy đoán và cân nhắc trong nhận định, một cách không kém phần sâu sắc (mời xem tiếp Phần 2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét