Khiemnguyen

Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Copy nhân ngày Thanh minh


“Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu”
 Mã Giám Sinh mua Kiều đem về Lâm tri, giao cho mụ Tú Bà ở lầu xanh. Mụ bắt Kiều quỳ lạy trước bàn thờ thần Mày Trắng:
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì
Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may
Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu
 Muôn nghìn người thấy cũng yêu
 Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai
 (câu 939 đến 944)
“Hàn thực” có nghĩa là ăn thức nguội. Sau tiết Ðông chí 105 ngày là tiết Hàn thực, nhằm vào ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Ðời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ là con của Hiến công nước Tấn, tránh loạn triều đình phải lưu vong nhiều nước khác. Trên đường đi có nhiều lúc phải chịu đói khát. Một hôm Trùng Nhĩ không ăn rau cỏ được, người đói lả. Bấy giờ, trong đám tòng vong có Giới Tử Thôi bưng một bát cháo thịt dâng lên. Trùng Nhĩ cả mừng vội ăn ngay, lấy làm ngon lắm. ¡n xong, hỏi: - Nhà ngươi tìm đâu được thế? Thôi thưa: - Ấy là thịt đùi của tôi, tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ, bề tôi trung bỏ thân để thờ vua. Nay công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải cắt đùi tôi mà dâng công tử. Trùng Nhĩ sa nước mắt, nói:
- Ơn này, biết bao giờ ta đền đáp được. Sau Trùng Nhĩ phục quốc, trở về nước lên ngôi là Tấn Văn công, ban thưởng cho những người có công, chia làm ba hạng. Một là những người tòng vong (những người theo đi trốn); hai là những người tống khoản (những người giúp tiền bạc); ba là những người nghinh hàng (những người xin làm nội ứng, đón rước về làm vua). Trong ba hạng này lại tuỳ những người nào có công nhiều hay ít mà phân hơn kém.
Ban thưởng công thần xong, lại yết một tờ chiếu ở cửa thành rằng: “Nếu người nào có công lao mà chưa được thưởng thì cho phép tự nói ra”.
Bấy giờ có tên Hồ Thúc nói với Tấn Văn công:
- Tôi theo chúa công từ khi còn ở đất Bồ, cho đến khi lưu vong khắp nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ bên cạnh. Nay chúa công thưởng công cho những người tòng vong mà không nghĩ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì?
Tấn Văn công nói:
- Trong số tòng vong, người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên ta là công đầu; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế là công thứ hai, người nào xông pha tên đạn để giữ gìn cho ta là công thứ ba. Còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại ở dưới nữa. Vậy ta thưởng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đến nhà ngươi. Hồ Thúc lấy làm hổ thẹn. Tấn Văn Công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả người theo hầu. Trong số bọn tòng vong trước có Nguỵ Thù và Ðiên Hiệt cậy mình võ dõng, thấy Triệu Thôi và Hồ Yển đều là văn thần mà lại được trọng thưởng hơn mình có ý không bằng lòng, thường kêu ca tỏ vẻ bất mãn. Tấn Văn Công biết ý nhưng nể là người có công lao nên bỏ qua. Giới Tử Thôi tính tình điềm đạm, thấy nhiều kẻ đổ xô nhau kể công còn so bì công lớn công nhỏ, lấy làm khinh bỉ, không muốn ở lẫn với bọn này. Ðến lúc Tấn Văn Công lên ngôi, Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần rồi cáo bệnh về nhà, yên phận nghèo nàn, ngày ngày khâu giày mướn nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn Công ban thưởng công thần, không có mặt Giới Tử Thôi nên nhà vua quên lửng. Có người láng giềng thấy Giới Tử Thôi không được ban thưởng, phải sống tình cảnh như thế nên không bằng lòng. Nhân thấy có chiếu kêu gọi người báo công yết trên cửa thành, nên vội vàng đến nhà Thôi báo tin. Thôi chỉ mỉm cười, không nói gì.
Bà mẹ nghe được, bảo:
- Mày khó nhọc trong 19 năm trời, lại cắt thịt đùi làm cháo dâng chúa công ăn, sao bây giờ mày không nói ra để được thưởng? Mong được vài chung thóc, chẳng còn hơn đi khâu giày mướn hay sao?
Giới Tử Thôi thưa:
- Con của Hiến công cả thảy 9 người, chỉ có chúa công hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho chúa công. Những người theo hầu không biết ý trời, dám tự nhận là công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chẳng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn.
Bà mẹ nói:
- Con làm được người liêm sỉ, còn ta không làm được mẹ của người liêm sỉ hay sao? Vậy mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên ở lẫn chỗ thành thị này. Thôi rất bằng lòng, liền cùng mẹ vào Miên Thượng, một vùng núi cao rừng sâu, làm nhà trong hang mà ở. Người láng giềng liền tìm cách báo đến Tấn Văn Công. Tấn Văn Công bấy giờ mới nhớ ra, hết sức ân hận, cho người đi triệu thì Thôi đã dọn nhà đi mất rồi. Tấn Văn Công truyền người láng giềng của Thôi dẫn đường và đích thân đến Miên Thượng. Ðến nơi, nhà vua để xe dưới chân núi, sai người đi dò tìm khắp nơi, chỉ thấy núi non rừng rậm, nước chảy lá trôi, chim hót véo von, mây che mờ mịt mà bóng Thôi không thấy đâu cả.
Tấn Văn Công có ý không bằng lòng, nói với người láng giềng:
- Sao Giới Tử Thôi giận ta quá như vậy? Ta nghe nói Giới Tử Thôi là người con chí hiếu, nếu ta đốt rừng tất Giới Tử Thôi cõng mẹ chạy ra. Ðoạn, truyền cho quân phóng lửa đốt rừng. Lửa to gió mạnh làm cháy lan đến mấy dặm, trong ba hôm mới tắt, nhưng không thấy Giới Tử Thôi. Bấy giờ họ đi tìm thì thấy mẹ con Thôi ôm nhau chết cháy bên gốc cây liễu. Tấn Văn Công nhìn thấy sa nước mắt, ân hận vô cùng. Ngày đốt rừng nhằm tiết Thanh minh mùng 3 tháng 3. Người trong nước cảm thương Giới Tử Thôi vì lửa cháy chết, nên hằng năm đến ngày đó không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn thực phẩm để dành ăn, gọi là tiết Hàn thực tức là ăn toàn độ nguội. Vào ngày này, nhà nào cũng cắm một cành liễu ở ngoài cửa nhà để chiêu hồn Giới Tử Thôi. Cũng có nhà bày cỗ bàn (đồ nguội) ra cúng tế. “Nguyên tiêu” là đêm đầu năm và có trăng đầu năm tức rằng tháng Giêng. Tục Trung Hoa, nhứt là đời nhà Ðường (618- 907) đêm Nguyên tiêu tại Kinh đô Trường An mở hội Hoa đăng, người người rộn rịp vui chơi suốt đêm. Cách xa Trường An 10 dặm vẫn còn nghe tiếng huyên náo ồn ào vẳng lại. “Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu” dùng để chỉ sự tấp nập vui vẻ từ đêm nầy sang đêm khác, ngày nầy sang ngày khác, khách làng chơi vào ra ra vào cửa hàng (lầu xanh) của mụ Tú bà. Mụ khấn vái trước thần Bạch Mi phò hộ cửa hàng của mụ được đắt khách như thế. Tiết Hàn thực không ăn ban đêm mà ăn vào ban ngày. Ngược lại, Nguyên tiêu không tổ chức các cuộc hội hè lễ bái ban ngày mà vào ban đêm. Lẽ ra phải viết: “Ðêm đêm Nguyên tiêu, ngày ngày Hàn thực” hoặc ngược lại mới đúng. Có thể vì hạn vận, tác giả “Truyện Kiều” phải viết: Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu để chỉ sự náo nhiệt, tấp nập ngày và đêm mà thôi.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Copy từ Tuoitreonline

Đăng ảnh khơi lại nỗi đau người khác, lương tâm nhà báo đâu?
Tôi thấy nghèn nghẹn, dường như báo chí đang khai thác quá giới hạn vào nỗi đau những người thân của các nghệ sĩ đã mất. Họ đưa với mục đích gì? Khơi lại nỗi đau đó, lương tâm nhà báo đâu?”. Trên đây là những thắc mắc mà bạn đọc Khánh Hưng muốn chia sẻ với mục Góc nhìn bạn đọc, trang bạn đọc Tuổi Trẻ Online. Để góp thêm một góc nhìn khác về sự xô bồ gần đây của một số trang báo mạng chuyên khai thác đời tư của người nổi tiếng nhằm giật gân câu khách, chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả bài viết này. "Gần đây công chúng liên tiếp nhận hai tin buồn vì sự ra đi của hai người nghệ sĩ tài hoa.
Những người nổi tiếng được cộng đồng quan tâm chắc chắn sẽ được tường thuật bởi báo đài. Có một điều tôi thấy nghẹn ngào là có rất nhiều hình ảnh đau thương của người vợ, của con cái họ được chụp cận cảnh, đưa đưa lên trang nhất. Và tôi hình dung ra đã có rất nhiều máy ảnh đang chĩa theo từng góc cạnh của những người thân người nhạc sĩ đã mất trong tang lễ. Dường như họ (những người chụp ảnh) đang chờ đợi để bấm máy những khoảnh khắc rất khổ đau trên khuôn mặt của người vợ trẻ, của những đứa con nhỏ. Họ làm vậy với mục đích gì? Khơi lại nỗi đau đó, lương tâm nhà báo đâu? Sẽ không có gì đi quá cho đến khi những hình ảnh người thân của họ được “đặc tả” cận cảnh lúc đau thương nhất được đưa lên.
Tôi thấy nghèn nghẹn, dường như báo chí đang khai thác quá giới hạn vào nỗi đau của những người ở lại. Tôi đi một vòng các tờ báo, chính thống có, lá cải có, hầu như trang nào cũng đăng tin hai người nghệ sĩ tài hoa này mất. Điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi những người được công chúng quan tâm như hai người nghệ sĩ này thì là một sự kiện đáng để họ quan tâm, và việc đưa tin lễ tang của họ cũng là điều nên làm ở góc độ báo chí.
Nhưng, có một điều tôi thấy nghẹn ngào là có rất nhiều hình ảnh đau thương của người vợ, của con cái họ được chụp cận cảnh, đưa đưa lên trang nhất. Và tôi hình dung ra đã có rất nhiều máy ảnh đang chĩa theo từng góc cạnh của những người thân người nhạc sĩ đã mất trong tang lễ. Dường như họ (những người chụp ảnh) đang chờ đợi để bấm máy những khoảnh khắc rất khổ đau trên khuôn mặt của người vợ trẻ, của những đứa con nhỏ. Đây không phải là lần đầu tiên mà những hình ảnh “đặc tả” đau thương này nở rộ trên các trang thông tin.
Mà đã có rất nhiều lần như thế này. Trước đó, ở Sài Gòn sự ra đi của một ca sĩ trẻ cũng được nhiều trang tin đưa tin từng chi tiết, từng hình ảnh người thân với khuôn mặt tang thương lên trang nhất. Rồi sau tang lễ này, những người thân của những người đã mất kia liệu có dám lên Internet khi hình ảnh đau thương của họ được chụp rõ mồn một? Rồi với tốc độ lan truyền như thế này, nỗi đau lại càng thêm đau cho những người ở lại. Với những người nổi tiếng đã khuất, khi họ cống hiến cho cuộc đời này nhiều điều tốt đẹp hãy nhắc đến những thành quả, hãy lan truyền những thông điệp ý nghĩa hơn là những hình ảnh như thế này. Tôi học báo chí, tôi từng làm báo, tôi hiểu rằng đây là một thông tin cần đưa lên báo, bởi có rất nhiều độc giả không thể tham dự đám tang những người nhạc sĩ, ca sĩ tài hoa này họ mong muốn được xem, được biết. Nhưng mọi thứ nên có giới hạn, nghề báo cũng cần có giới hạn trong việc đưa những hình ảnh này lên trang báo của mình. Trước hết đó chính là tôn trọng sự tự do cá nhân của những người thân, sau đó cũng là một chút thành kính với người đã mất. Những niềm tiếc thương của chúng ta dành cho người nghệ sĩ đã mất rồi cũng sẽ qua. Nếu dành sự kính trọng, xin đừng đưa hình ảnh tang thương của người thân lên trang nhất!”.
KHÁNH HƯNG

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

Tặng sách "Hướng dẫn cách viết báo"

Như tiêu đề, cụ mợ nào muốn có cuốn sách trên để nghiên cứu hay học tập thì nhà cháu xin tặng bản điện tử PDF, đề nghị lưu lại email trên trang này.

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016

Năm 1932, báo chí của ta đã lên tiếng đòi Trung Quốc phải trả Hoàng Sa cho Việt Nam

           Lần mò trong chồng báo cũ, thấy từ đầu thế kỷ XX báo chí của ta đã có nhiều bài viết về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nam Phong tạp chí số 172, tháng 5/1932 đã đăng lại bài viết về vấn đề  này từ Ngọ Báo và Tiếng Dân.
            Xin trân trọng giới thiệu cho các cụ nghiên cứu và trích dẫn thoải mái... Lưu ý là nên để lại lời bình luận nếu thấy thông tin hữu ích.








Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

Trương Vĩnh Ký và 100 năm Báo chí Việt Nam (phần 1)








Trương Vĩnh Ký và 100 năm Báo chí Việt Nam (phần 2)










100 năm lịch sử báo chí Việt Nam (phần 1)



Nguyễn Ngu Í (1921 – 1979) là bút hiệu thường dùng của Nguyễn Hữu Ngư (thường được ông viết là Nguiễn Ngu Í, Nguiễn Hữu Ngư), ngoài ra ông còn ký các bút hiệu: Trịnh Nguiên, Tân Fong Hiệb, Phạm Hoàn Mĩ, Trần Hồng Hưng, Lưu Nguiễn, Đ.T.T, Nghê Bá Lí, Ngư Fi Lô Cố; là một nhà giáo, nhà thơ, nhà báo Việt Nam. Năm 1942, ông bắt đầu bước chân vào nghề văn, nghề báo. Nguyễn Ngu Í cộng tác với Nam Kỳ tuần báo của Hồ Biểu Chánh, rồi tờ Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, tham gia việc thành lập Hội truyền bá quốc ngữ Nam Kỳ. Tháng 8/1945, giữ chức Tổng thư ký đầu tiên của Ủy ban nhân dân cách mạng xã Tam Tân. Tháng 6/1946, ra Hà Nội làm việc ở Phòng thiếu nhi toàn quốc do Lưu Hữu Phước phụ trách. Năm 1952, ông về Sài Gòn, trở lại nghề dạy học và viết báo, cộng tác với tờ Bách khoa và những tờ báo khác như Mai, Sáng dội miền Nam, Hòa đồng, Nghệ thuật...
Nguyễn Bùi Khiêm trân trọng giới thiệu một tác phẩm nghiên cứu của Ông cùng bạn đọc.