|
Đoàn Xuân
Kiên
|
Sau 1975
Những dự đoán cải tổ trước kia ở hai miền Nam, Bắc đều không có yếu tố thuận
lợi về mặt công chúng. Sau 1975, vai trò chuẩn hóa tiếng Vỉệt, giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt được đặt ra
toàn diện. Theo đã làm việc đó, một
số Từ điển, chủ yếu là song ngữ, đã ra đời.
Dường như có cả một công trình biên soạn Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ
chủ biên. Tiếng Việt trong hoàn cảnh thuận lợi nhiều mặt như thế tất yếu là
phải phát triển, vì hội đủ những yếu tố cần thỉết cho một cuộc vận động xã hội:
tổ chức chỉ đạo, công chứng, cơ quan công cụ. Thành hay bại giờ đây là tùy
thuộc ở đảm lược của chính những con người ở hải ngoại, chưa thể có những điều
kiện thuận lợi như thế. Nhưng những nhu cầu của tập thể người Việt ở hải ngoại
về mặt ngôn ngữ lại đòi hòi sự quan tâm đúng mức của mọi người để công việc duy trì ngôn ngữ và văn
hóa dân tộc có những nền móng ổn định và vững chắc. Thế mà, không có
được những tổ chức chuyên môn có thể góp phần vào công việc lớn lao này. Đây là
một thử thách lớn cho mọi người. Không trừ một ai.
Ngày nay, có một số không nhờ người Việt ở hải ngoại. Nhu cầu về lâu về
dài của cộng đồng người Việt là làm sao duy trì ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Từ
đó đặt ra công việc dạy và học tiếng mẹ đẻ bên cạnh những công việc khác. Dạy
những gì và dạy ra sao, là những câu hỏi mà mỗi thầy giáo và mỗi bậc cha mẹ
thường vẫn phải đặt ra để tự soi đường cho việc mình làm; vì đến nay hầu như
chưa có nhiều công trình đầu tư suy nghĩ cho cái công việc nặng nhọc này.
Chỉ giới hạn trong phạm vi rất nhỏ hẹp thôi, là vấn đề dạy chữ quốc
ngữ, cũng đã có nhiều việc phải bàn. Chẳng hạn, khi cô giáo dạy trẻ rằng đọc là
/á/. Nhưng
khi cô
ghép vần với n /n/, cô đọc là /á-n -) ăn/, cháu bé sẽ ngẩn ngơ, vì không hiểu
sao không thây dấu sắc /7 nữa. Nó cứ đinh ninh là /á-n --) án/ chứ. Trực giác
của cô giáo và của cháu bé đều không sai, chỉ có qui ước của kí hiệu ở đây
không chính xác. Ví dụ khác nữa: các cháu được dạy ng đọc là /ngờ/ nên cứ yên
trí là nghề nghiệp đúng chính tả, như là ngọc ngà vậy thôi, vì cùng có âm /ng/ ở
đầu tiếng...
Những cái “yên trí” như vậy đều có trong mỗi đứa trẻ con trong mỗi
người Việt ở mọi thế hệ. Các bậc
cha mẹ có thể nhìn ngược xa về những ngày thơ ấu của mình để làm chứng cho kẻ
viết bài này. Chúng ta đâu có lỗi! Chúng ta chi bị hệ thống chữ viết “lõm”
chúng ta mà thôi, mà nguyên do chỉ là vì sự bất nhất trong nguyên tắc mà chính
những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đặt định: dùng chữ cái Latin để ghi các âm
theo nguyên tắc mỗi âm một kí hiệu.
Những vướng víu như thế sẽ dễ thông qua nếu ta vẫn còn hằng ngày hít
thở ngôn ngữ của mình ở quê nhà. Nhưng đối với trẻ con đang từng ngày bị lôi
kéo xa khỏi cộng đồng ngôn ngữ dân tộc, những vướng víu như vậy sẽ nổi lên rất
rõ, có thể đến mức gây thành ấn tượng không hay ho gì cho tiếng nói và chữ viết
dân tộc. Trong trí trẻ luôn luôn có khuynh hướng đối chiếu ngôn ngữ khi nói và
viết tiếng mẹ đẻ, vì chúng đã có một khuôn mẫu ngôn ngữ khác, khuôn mẫu ngôn
ngữ Ân - Âu cũng dùng hệ thống chữ cái Latin.
Tất cả những yếu tố tâm lí và xã hội ngôn ngữ học nói đến ở trên đều
tác động vào việc học tiếng mẹ đẻ của trẻ Việt song ngữ trong cộng đồng hải ngoại hiện
nay và mai sau.
Nhiệm vụ của chúng ta là làm giảm nhẹ những thứ hành lí nặng nề không
cần thiết cho công việc dạy và học tiếng Việt ở ngoài nước. Từ đó, đặt ra việc
nhìn trở lại những gì chúng ta đang có: hiện tình chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ hiện nay gồm có 29 chữ cái mượn từ hệ thống chữ cái Latin
có thay đổi chút ít để phù hợp với nét vẻ riêng của tiếng Việt; trong đó 17 chữ
cái dùng để ghi phụ âm, 12 chữ cái để ghi nguyên âm. Ngoài ra còn có 5 dấu để
ghi giọng cao thấp của nguyên âm. Không kể đến hệ thống chữ viết cổ của dân tộc
nay chỉ còn dấu vết rời rạc trên một số di chỉ khảo cổ, hay chỉ so với hệ thống
chữ nôm vốn cũng theo nguyên tắc kí âm mà ta mượn nét viết của chữ hán, phải
nhận rằng chữ quốc ngữ đơn giản và tiện lợi hơn nhiều lắm, và cũng là một hệ
thống được tạo lập rất có khoa học so với tình trạng khoa ngữ học ở thế kỉ XVIII
- XIX. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chữ quốc ngữ đã rất hoàn hảo, bất
khả xâm phạm. Sự thay đổi của bộ mặt chữ quốc ngữ trong vòng một thế kì từ khỉ
Từ điển de Rhodes ra đòi cho đến khi Pigneau de Béhaine soạn Từ điển cùa ông đả
chứng tỏ rằng các nhà hoạt động ngôn ngữ đã không quá bảo thủ hoặc hănh tiến
đến mức liều lĩnh cố chấp. Huống chỉ, ba trăm năm qua, nhiều tiến bộ về mặt học
hỏi song song với sự đổi thay tự nhiên của tiếng Việt, đã khiến cho những niềm
tin cũ nay trỏ nên đáng nghi ngờ, cần
phải dành nhiều công sức của nhiều giới có thiện chí.
Trong tình trạng hiện nay của chữ quốc ngữ, hay nói đúng hơn, hiện
trạng của chữ quốc ngữ trong vòng một trăm năm trở lại đây - tính từ thời điểm
những bộ từ điển Taberd, Legrand deLa Lừaye (1877), Génibrel (1898), Bonet
(1899) xuất bản, có thể thấy nhiêu vấn đề cần đặt ra thảo luận. Chúng tôi tạm
qui về hai nhóm vấn đề:
(1). Những sự thay đổi tự nhiên qua thời gian khiến cho chữ viết không
còn ghi đúng nội dung âm thanh tiếng nói;
(2). Những hiện tượng đi lạc ra ngoài nguyên tắc “mỗi kí hỉệu chuyên chở
một đơn vị âm thanh của ngôn ngữ”.
Chữ quốc ngữ qua thời gian
Cuốn từ điển của de Rhodes có một phần biên soạn về ngữ pháp tiếng Việt, có tựa là
Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratỉo (Sơ lược về tiếng An nam hay tiếng Đàng
Ngoài), chính là một tập ngữ pháp Việt Nam vào thời kì này. Chương I: “Về các chữ và vần cấu tạo nên
tiếng nói” có đoạn nói về chữ D như sau:
“Chữ D ở Đàng Ngoài đọc
giống y như chữ D ở tiếng Latin.
Tuy nhiên cũng có vài khác biệt: khi chữ D có chữ E dính liền mà khổng đọc rời
chữ E ấy, như chữ Dea chẳng hạn. Còn khi không có E thì hoàn toàn đọc như D của
chúng ta, như tiếng Da...” (Ibidem).
So sánh với đoạn nói về chữ Gi, ta thấy ông chỉ dẫn cách đọc Gi tương
tự như lốì đọc gi ở tiếng Ý. Kiểu nói phân biệt /d/ và /gi/ này đã dần biến
mất, mà có khuynh hướng đồng hóa cả hai thành /z/ ở tiếng Bắc, và m ở tiếng Trung, Nam. Nhưng chữ viết
vẫn không đổi thay theo. Hình thức viết gi và d hiện nay vẫn là theo mẫu mực
của thế kỉ XVII.
Nếu không dựa vào lịch sử phát âm như thế, khó có thể hiểu tại sao lại
viết giản dị mà không thể viết là dản
dị được.
Hiện tượng chữ PH cũng đáng chú ý. Từ điển A. de Rhodes ghi rằng: “Thực
ra tiếng xứ này không, bao giờ có p đứng đầu các chữ như đã nói ở phần nghiên
cứu chữ F. Chỉ có PH, đọc giống như phi của Hy Lạp” (Ibidem). Ngược lên đoạn
nói về chữ F, ta thấy chỉ dẫn như sau: “F - hay đúng hơn, PH - vì khi đọc nó,
không tách hai môi như khi đọc F của ta. Khi phát âm chữ này, môi cử động rất
nhẹ và hơi rít cũng chỉ qua loa” (Ibidem).
Maspéro cắt nghĩa rõ thêm rằng ph là một âm môi hơn là âm môi răng như
ngày nay. Âm này đã thay đổi từ bao giờ không rõ, nhưng rõ ràng là âm /h/ trong
tổ hợp /ph/ ngày nay không còn bật hơi như ngày xưa; thảng hoặc chỉ còn một vài
nơi hoặc vài cá nhân nói giọng cổ đó mà thôi (Xem Maspéro, Etud.es sur la phonétiquehistorique de ỉa
langue annamite; les initiales. BEFFEO, n.l, p. 46). Nói cách khác, ngày
nay, âm PH phát âm như âm F của người phương Tây, chứ không bật hơi khi mở hai
môi như ngày xưa A. de Rhodes đã ghi nhận.
Tưởng cũng cần nói thêm là de Rhodea và các vị chế tác chữ quốc ngữ đã
có dụng ý thêm chữ h trong các trường hợp th, kh, ph là để chỉ tính cách bật
hơi thở của những âm này; cho đến nay, tính cách này đã mất đi ở ph, và giám nhẹ ỏ kỷ.
Trên đây là những sự kiện nhặt ra được từ chính nội thản tiếng Việt để
so sánh với chữ viết theo hệ thống chữ cái Latin. Những đổi thay này là tự
nhiên thôi, không miễn trừ ngôn ngữ nào cả. Cũng chẳng phải vì tiếng nói đổi
thay là chữ viết cũng phải sửa đổi theo ngay. Dù sao, thói quen của tập thể
người sử dụng ngôn ngữ vẫn mạnh hơn ý muốn của thiểu số nhà khoa học. Qui luật
của ngôn ngữ là: tập quán của đám
đông quyết định sự tồn tại của một hiện tượng ngôn ngữ. Cho nên, các hiện tượng
đổi thay qua thời gian được đề cập ở đây chỉ có ý nghĩa nói lên tính cách động
của tiếng nói qua thời gian, chứ không phải ngôn ngữ luôn luôn “nhất thành bất
biến”.
Những hiện tượng lạc ra ngoài nguyên tắc âm
vị học
Bộ chữ cái La tin dùng để ghi âm tiếng Việt tất nhiên là cũng theo
nguyên tắc chung của mọi hệ thống chữ viết ghi âm: mỗi chữ cái là một kí hiệu
ghi lại một âm thanh. Thế nhưng trong chữ quốc ngữ của chúng ta, không phải lúc
nào cũng có sự trùng khít giữa chữ cái và nội dung các âm thanh. Và đây chính
là nguyên do làm nảy ra các sáng kiến cải tổ chữ quốc ngữ một cách có ý thức do
các nhà ngôn ngữ đề xướng.
Trước hết là hiện tượng c, k, qu.
Từ điển de Rhodes ghi chú rằng: “Chữ c
chỉ d vị trí đầu các tiếng có nguyên âm a, o, ơ, u, ư; còn trước các nguyên âm ê
và i chứng ta dùng k hoặc s (sic)”. Ở đoạn nói về âm k, tác giả viết: “k chỉ
đứng với nguyên âm ê và i, chẳng hạn: ke 10...” (Cf. Brevis Declaratio. Ibidem).
Tại sao lại có hiện tượng đó? Không phải tiếng Việt đọc âm /k/ khác
nhau trước hai loại nguyên âm này, mà chính là các nhà chế tác chữ quốc ngữ đã
đem áp dụng thông lệ chính tả của Pháp đặt vào tiếng Việt. Nhưng âm /ky trong
tiếng Pháp lại không có chúm môi trước nguyên âm, cho nên phải mượn QU trong
tiếng Latin và đọc y như ở
trong tiếng Latin vậy. Đây là một thói quen của một số giáo sĩ phương Tây đặt để lên tiếng
Việt mà không có lí do thỏa đáng nào cả.
Mặc dù vậy, thầy cô giáo tiếng Việt vẫn cứ phải
gọi đó là “qui tắc” để nhắc nhờ học sinh viết cho đúng “nguyên tắc”.
Trường hợp g(h), ng(h) cũng là một lệ ngoại. Hiện tượng thêm h trước
các nguyên âm E, E, I, là ảnh hưởng của lối chính tả Latin chứ không có lí do
tự nội thân tiếng việt. Âm /h/ trong trường hợp này không có cơ sở vững chắc
như kh, ph, thu.
Hiện tượng GI được nhắc đến trên đây cũng là một trường hợp đi lạc ra
ngoài nguyên tắc âm vị học nữa. GI là cách chính tả của tiếng Ý, mượn để chỉ
một âm tắc xốt ở vào thời de Rhodes. Gỉ, như vậy, chỉ là một kí hiệu chỉ một âm
đầu, kết hợp với một nguyên âm nào đó mới thành một tiếng: gi-à, gi-ỏ, gi-ề,
gi-iết.
Thế nhưng khi ghép với nguyên âm I, GI lại mất I: g (i) - i -) gi. Đây là sự vi phạm
nguyên tắc âm vị học, vì g(i) giờ đây đồng hóa với một âm khác là g / g(h) nhưng
lại đọc khác hoàn toàn.
Cũng theo qui ước âm vị học, tất cả các nguyên âm đều được phát âm ở
bậc thang âm ngang: a, ỉ, o, u...đều đọc là /a/, m, /o/, /u/. Nhưng khi đọc đến những nguyên âm ngắn của a và d,
người ta phát âm thành một âm có bậc thang âm rất cao, ở bậc dấu sắc. Sự lẫn
lộn nhỏ này đã dẫn đến một nhầm lẫn lớn khác: làm mờ sự đối xứng giữa nguyên âm
dài và nguyên âm ngắn ở tiếng Việt. Nói cách khác, â và a không phải là
hai âm khác nhau mà chỉ là một âm dài và một âm ngắn mà thôi, tương tự như cặp ơ và â vậy. Có nhận ra sự đối lập này
mới cắt nghĩa thấu đáo tại sao có một sự phân bố đồng đều giữa chúng khi kết
hợp với các âm cuối y, u, ch, nh. Theo cách viết hiện nay thì ta nghĩ những
nguyên âm trong ay, au, ach, anh là những
nguyên âm
dài, nhưng thực ra đó chính là những âm a ngắn, còn những âm a dài thường phân
bố kết hợp với những âm cuối trên dưói dạng viết sau: ai, ao, ac, ang.
Trong cách viết chữ quốc ngữ hiện nay, có hiện tượng bất nhất khi viết i
và y. De Rhodes ghi chú như sau
về cách viết hai chữ này ở thời ông: “Tiếng xứ này chỉ dùng chữ I làm nguyên
âm, vì chữ I phụ âm được thay bằng chữ G (sic). Muốn tránh lẫn lộn, ta dùng I ở
giữa hay ở cuối tiếng: biết, bỉ. Cũng cần chú ý là ta dùng âm Y ở cuối tiếng
khi nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách biệt: Éy (ấy), nhưng phải dùng
I khi nào nguyên âm kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai. Để tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một chữ, ta không đánh hai
dấu chấm trên chữ I. Chỉ cần nhớ với nhau rằng viết Y ở sau một nguyên âm không
phải để đọc thêm một vần tách biệt mà chỉ có ý phân biệt vần như trong cây và cai. Ta cũng dùng Y trước một
số nguyên âm nhưng cũng không xem là phụ âm bao giờ, chẳng hạn Yéo (tức là yêu), Ya (tức là
ia)” (Ibidem).
Nguyên tắc này được áp dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento Thiện
(1659) cho đến những tự vị của Génibrel (1898) và của Hội Khai Trí Tiến Đức
(1931).
Có thể nêu ra “qui tắc” chung vè
cách viết I và Y như sau:
Chỉ viết Y trong những trường hợp sau đây:
(a). Ở đầu một tiếng và sau đó có âm Ê; ví dụ: yên, yêu, yết.
(b). Ở sau âm chúm môi /u/ (ngoại trừ khi viết với qu). Ví dụ: uy, tuy,
khuya, chuyện...
(c). Ở sau qu nhưng theo sau đó có Ê hoặc NH. Ví dụ: quyền, quyết,
quỳnh.
(d). Sau âm ngắn của /a/ (tức là sau chữ A) và âm ngắn của /d/ (tức là
chữ A). Ví dụ: may, mây, đây, đây.
(đ). Đứng độc lập thành một tiếng. Ví dụ: Y, Ý. Tuy vậy, trong khi
chúng ta viết ỷ (lai), thì sự thiên vị trong tâm lí ngôn ngữ đã tạo nên thói
quen viết: (âm) ỉ, (ầm) ĩ, (đi) ỉa theo đúng nguyên tắc âm vị học. Cũng tâm lí thiên lệch
đó khiến chúng ta viết lý, yêu với niềm tin rằng vẻ thẩm mĩ của chữ y sẽ tạo ấn
tượng “tốt đẹp” mà tự thân chữ viết không hề mang lại.
Chi viết I trong những trường hợp sau đây:
(a). Ở phần âm chính của vần. Ví dụ: bí, chim, đi, hí, k!t kim, lì, lính, sĩ, tỉ, tím, vì, vịnh...
Theo qui tắc này thì sau qu chính là phần âm chính của tiếng, vậy phải viết với
ỉ: quí, quít, quỉ, (hoa) quì.
(b). Sau một nguyên âm làm âm chính, hay là trong những trường hợp I là
một bán nguyên âm. Ví dụ: ngùi, đói, người,
cải, hòi, chuối, hỏi, trai.
Trong một số sách báo tiếng Việt, chúng ta có thể lượm lặt rất nhiêu
kiểu viết bất nhất về chữ I và Y. Dường như người viết chỉ theo trực cảm hoặc
theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên chỉ có hiện tương tên người
là Sĩ được viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị (nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ
(nạn)...
Dựa theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, chúng tôi nhận thấy có thể
ta có những trường hợp sau đây viết lẫn lộn I thành Y: sau các âm khởi đầu m,
t, 1, k, qu, h. Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán Việt theo cách khác, e là
không chính đáng, vì chữ viết kí âm không bao giờ “chia hán/nôm” mà chỉ quan
tâm đến việc ghi âm sao cho đúng như khi ngưòi nói phát âm ra. Vì thế, không có
lí do gì để phân biệt mỹ (thuật), với (bánh) mì, hoặc là phân biệt (biệt) ly
với 11 tỉ, lấy lí do là một bên viết với y vì là từ hán việt, bên kia viết với
ỉ vì là một từ nôm na. Vả lại, thật là khó chấp nhận sự kiện cho rằng có thể cả
hai cách viết ỉ và y đi kèm với những âm khởi đầu m, t, 1, k, qu, h đều được
coi là đúng, là hợp cách như một tác giả đã ghi nhận (L.Thompson, A Vietnamese Grammar. Seattle, 1965, tr. 65).
Thật ra, khi chúng ta viết Lý, Kỹ, Mỹ với y, ta đả chọn thói quen và
trực cảm chủ quan hơn là dựa trên chính dữ kiện ngôn ngữ để viết chữ quốc ngữ.
Có lẽ vì thế mà Việt Nam Tự Điển (1931) của hội Khai Trí Tiến Đức - một công
trình đồ sộ của các học giả có trình độ làm việc cao, ra đời cùng một thời với
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh - đã không theo thói quen này.
Hiện tượng bất nhất nói trên đã diễn ra từ thời kì nào? De Rhodes và
những nhà sáng chế chữ quốc ngữ xem ra rất tách bạch về cách dùng chữ này - như
lời dẫn trong sách của ông đã cho thấy. Đến những từ điển Huỳnh Tịnh Của
(1895-6) hay là của Génibrel (1898) thì đã có dấu hiệu của sự phân hóa giữa hai
qui tắc: các ông vẫn viết I ở phần chính: huình, quình, Huịch, huiên, nhưng
cũng có những chỗ viết, huyên, khuyên, truyền, ly... nghĩa là bắt đầu vào “qui tắc”
của cách viết Y mà chúng tôi vừa nêu ở một đoạn trên. Ta thấy rõ có sự lẫn lộn
I là nguyên âm chính với Y là bán nguyên âm hay nguyên âm phụ.
Đến những năm đầu thế kỉ XX thì sự lẫn lộn đã trở nên phổ biến: Đào Duy
Anh soạn Hán Việt Từ Điển thì chuộng y khi viết với m, 4, 1, k, qu, h. Từ điển
của Khai Trí Tiến Đức thì nhất loạt theo qui tắc mà chúng tôi nêu ở trên. Uy
tín của hai bộ từ điển đã kéo theo sự phân hóa về chính tả sau đó. Tuy nhiên,
trong nhà trường, qui định chính tả đả được minh thị trong các ấn bản Chương
Trình Trung Học do Bộ Giáo Dục xuất bản hằng năm, rằng phải theo qui tắc viết
của Việt Nam Tự Điển. Tuy thế, dường như nhà trường phổ thông không thiết tha
gì với chính tả, và dường như không mấy ai để ý quyển từ điển này đã viết chữ
quốc ngữ ra sao! Có người còn nói liều rằng quyển từ điển này đã lạc hậu rồi.
Phải, sẽ phải quên nó đi thôi nếu quả thật là nó đã bị vượt bỏ. Nhưng mà cho
đến nay vẫn chưa có bộ từ điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong lối
chọn mục từ, giải nghĩa, và dẫn chứng văn liệu chính xác như nó. Đó là điều
đáng buồn chung cho những ai thích sự tiến bộ (Chúng tôi không nghĩ là chiêu
dày của bộ từ điển Lê Văn Đức đã đủ để được tôn là bộ từ điển có giá trị về
mặt phương pháp cùng nội dung biên soạn).
Trở lại hiện tượng I và Y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này tương
đối mới mẻ so với lịch sử 300 năm của chữ quốc ngữ. Có thể tạm xác định mốc
những năm đầu thế kỉ XX. Vả chăng, Bản đề nghị của Ủy Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ
(1902) đã xác nhận giả thuyết này.
Một hiện tượng khác cũng cần để ý
là tiếng Việt có đến 4 con chữ dùng để viết hai bán nguyên âm: /w/ được ghi bằng o và u, /y/ được ghi bằng i và y:
hòa/hào, mùa/màu, mai/may... Nguyên tắc âm vị học lại một lần nữa bị vi phạm.
Hãy lấy cặp mai/may làm tì dụ: sự khác biệt giữa hai tiếng này không
nằm ỏ i/y mà chính là ỏ hai âm a. Một đàng, a được đọc dài, một đàng âm a đọc
ngắn; vậy để cho chính xác, phải ghi
hai âm a đó. Nhưng thói quen đã ghi như vậy.
Tưởng cũng cần nhắc lại hiện tượng h ghi trong nh và ch. Hai phụ âm nh
và ch chỉ là mượn kiểu ghi âm của tiếng
Bồ, hoàn toàn không có hiện tượng bật hơi thở như trong bộ ba ph, kh,
th. Mặc dù ngày nay h đã mất tính cách bật hơi trong ph và giảm nhẹ trong kh,
nhưng chữ quốc ngữ vẫn không vì thế mà đổi theo.
Trở lên là những vấn đề đặt ra cho ngưòỉ Việt khi suy nghĩ về việc giảng dạy tiếng Việt cho con em ở một
thời kì mà những hiểu biết về ngôn ngữ cho phép chúng ta rút ngắn những kiểu
làm việc, giảm thiểu những thừa thãi vô ích. Trong ý nghĩa đó, bao nhiêu cố
gắng của các thế hệ nghiên cứu tiếng Việt không có nghĩa là làm phiền toái sự
việc, mà ngược lại là những nỗ lực để nhìn sự vật một cách chính xác hơn. Thế
tại sao, từ 1902 đến nay, những gắng công của các thế hệ nghiên cứu đều chưa
thành công trong việc làm cho chữ quốc ngữ thêm chính xác? Chúng tôi không nghĩ
là trách nhiệm thuộc về họ, mà là ở nhà trường. Nhà trường Việt Nam trước đây
đã không làm đúng phần việc của nó trong sự gìn giữ chữ quốc ngữ được ngày một
tinh giản.
Bài viết này không đặt vấn đề sửa đổi chữ quốc ngữ. Việc đó để dành cho
những cơ quan có thẩm quyền về
sau này. Dụng ý duy nhất của người viết là phân tích một vài khía cạnh của chữ
quốc ngữ để mong nhận ra dáng vẻ sống động của hệ thống chữ viết Latin này
trong dọc dài lịch sử chữ viết dân tộc. Chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều thay đổi từ nhiều thế hệ, do công phu
của những người sử dụng ban đầu - mà không nghi ngờ gì nữa - đều là những người
có trình độ hiểu biết rành rẽ về nó.
Trong tình trạng hiện nay, thiếu một tổ chức thẩm quyền, việc sử dụng
chữ viết đang chịu một thách đố của qui luật phát triển tự nhiên. Dạy tiếng mẹ
đẻ trong hoàn cảnh đó thật là phức tạp. Những ghi chú trên đây chỉ nhằm tìm một
chỗ dựa cho việc soạn thảo bài giảng tiếng Việt cho thế hệ trẻ mà không vương
vấn giữa những phiền toái không cần thiết - trong nhiều trường hợp chỉ là làm
mất vẻ trong sáng của tiếng nói và chữ viết./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét