|
Sơn
Tùng
|
“Anh ta ra khỏi ga xe điện ngầm L’Enfant Plaza và đứng dựa vào bức tường cạnh sọt rác. Thoạt
trông, anh ta chẳng có gì nổi bật, chỉ là một chàng thanh niên da trắng mặc
quần jean, áo may
ô tay dài, đầu đội mũ lưỡi trai có huy hiệu đội bóng chày Washington
Nationals. Từ trong chiếc hộp, anh
lấy ra một cây đàn. Đặt chiếc hộp mở toang dưới chân, anh tinh ý ném vào vài
đồng tiền xu và vài tờ giấy bạc để làm ‘mồi’. Anh xoay chiếc hộp về phía dòng
người xuôi ngược, rồi bắt đầu chơi đàn”.
Trên đây là đoạn mở đầu bài báo có nhan đề Pearls Before Breakfast (tạm dịch “Ngọc trai trước bữa điểm tâm”) do nhà báo Gene Weingarten viết, đăng trên tờ Washington Post ngày 8/4/2007. Bài báo này đã đoạt giải thưởng Pulitzer (2008) cho thể loại “feature”, bên cạnh các giải cho những thể loại khác như
phóng sự điều tra, phục vụ cộng đồng v.v... Pulitzer là giải thưởng báo chí danh gíá nhất nước Mỹ và
cũng thuộc loại tầm cỡ nhất trên thế giới.
Feature là gì?
Có lẽ chỉ hoàn toàn tình cờ, ngày phát hành quyến sách về nghề báo Ký
giả chuyên nghiệp tại Sài Gòn thật dễ nhớ: ngày 30/4/1974, đúng một năm trước khi chính quyền miền Nam Việt Nam sụp đổ hoàn toàn. Đó là quyển sách dịch từ nguyên bản tiếng
Anh The Professional Journalist ấn bản lần thứ ba, xuất bản ở Mỹ năm 1973.
Nhưng không phải ngẫu nhiên khi quyển sách này được dịch ra tiếng Việt và xuất hiện ở Sài Gòn chỉ một thời gian ngắn sau khi ấn bản mới nhất được bán tạí
Mỹ. Lúc bấy giờ, The Professional Journalist được xem là một trong những quyển sách gối đầu giường của sinh viên ngành
báo chí. Ấn bản tại Việt Nam
do Hiện đại Thư xã in ấn và phát hành. Tác giả quyển sách là John Hohenberg, giáo sư báo chí của Viện đại học Columbia với trường báo chí sau đại học nổi tiếng nhất của nước Mỹ. Columbia là nơi khai sinh ra giải thưởng Pulitzer do chính nhà báo Joseph Pulitzer sáng lập, và cũng là nơi Tổng thống Mỹ Barack Obama nhận bằng tốt nghiệp đại học năm 1983.
Chương 14 trên trang 231 của quyển Ký giả
chuyên nghiệp (bản
tiếng Việt) có tựa đề “Vấn đề nhân cảm trong tin tức”. Ở dòng thứ tư của đoạn
mở đầu, lần đầu tiên trong quyển sách, Hohenberg bắt đầu đề cập một cách tương
đối chi tiết đến khái niệm “feature”
với tư cách là một thể
loại báo chí. Ồng viết: các chủ biên thường chia tin tức ra làm ba loại: tin trực thuật (straight news), đặc ký (features)
và các tài liệu về đường
lối chính sách (policy material).”
Có lẽ phần lớn các nhà báo Việt Nam ngày nay
không lạ gì với khái niệm “tin trực thuật” được Ký giả chuyên nghiệp
nhắc đến 34 năm trước. Đó là công thức viết tin với cấu trúc hình tháp ngược 5 W + 1 H, được cả thế giới
áp dụng đến tận ngày hôm nay. Nhưng khi đề cập đến khái niệm “feature” thì không phải ai trong chúng ta cũng biết tường tận
dù có thể đã không ít lần áp dụng.
Lê Thái Bằng và Lê Đình Điểu, hai người dịch
quyển The Professional Journalist đã dùng chữ “đặc ký” làm thuật ngữ tiếng Việt tương đương với “feature”. Tuy nhiên, chữ này có vẻ không hoàn toàn lột
tả được nghĩa của thuật ngữ tiếng Anh. Vì thế, một cuộc thăm dò bỏ túi được
thực hiện với năm nhà báo nhiều kinh nghiệm thuộc nhóm Thời báo Kinh
tế Sài Gòn nhằm
thử tìm một thuật ngữ tiếng Việt tốt hơn. Nhưng mặc dù các nhà báo này đều quen
thuộc với khái niệm tiếng Anh, ai cũng bảo khó tìm được thuật ngữ tiếng Việt
tương đương nào khả dĩ lột tả được khái niệm này[1].
Trong bài viết về giải Pulitzer năm nay, báo Tuổi Trẻ đã dịch feature thành “phóng sự”. Tự điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê
chủ biên (in lần thứ sáu, năm 1998) định nghĩa “phóng sự” như sau: “Thể văn
miêu tả những việc thật có tính thời sự xã hội”. Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu
hơn khái niệm feature sẽ được trình bày dưới đây, định nghĩa này e cũng không ổn lắm. Hơn nữa,
đối chiếu với thể loại “phóng sự” theo thực tế báo chí Việt Nam, dịch feature thành “phóng sự” cũng không thể hiện được hết
nghĩa của từ này.
Tìm từ tương đương chính xác trong tiếng Việt cho
chữ feature
quả thật có phần khó vì
ngay cả nhiều sách giáo khoa báo chí ở Mỹ cũng không có định nghĩa thật rõ ràng
thế nào là feature. Điều họ
thường làm là chỉ đưa ra được... khái niệm, thay vì định nghĩa chính xác.
Stein, Patemo và Bumett trong quyển Newswriter 's Handbook (Nhà xuất bản Blackwell Publishing, Ames, Iowa, 2006) định nghĩa feature như sau: “sự kế hợp các tình huống và các cá nhân làm cho nỏ khác biệt với tin trực thuật”. Thú thật, cách giải thích
này dường như còn rất mờ mịt! Nhưng lời giải thích tiếp theo của các tác giả có
vẻ làm vấn đề sáng tỏ hơn khi họ viết: “Feature thường chú trọng đến
khía cạnh hài hước của cuộc đời, nỗi đau thương, sự
mỉa mai, điều kỳ lạ hoặc những sự kiện gây xúc động. Feature
có thể giúp độc giả tiêu khiển hoặc khiến họ cảm thấy phấn chấn, buồn bã
hoặc hoài nghi. Feature cũng có thể giải thích
hoặc diễn giải nhằm giúp độc giả dùng tiền bạc, tài sản hoặc giữ gìn sức khỏe
tốt hơn. Đôi khi feature có thể làm sáng tỏ hơn
sự phức tạp trong chính trị hoặc tình hình thế giới theo cách mà thể loại ‘tin
trực thuật’ không thể làm được”.
Vậy thì cốt lõi feature
là gì?
Hãy xem Maria Cecilia Genove, một nhà báo Phi Luật Tân định nghĩa feature trong quyển sách của mình nhan đề Feature Writing
for Filipinos (Viết feature dành cho nhà báo Phi Luật Tân) xuất bản năm 2004:
“Feature
là bài báo có tính chất sáng tạo, nhằm mục đích chính yếu là giúp độc giả
tiêu khiển hoặc thông tin cho họ một sự kiện, một tình huống hay một khía cạnh
của cuộc sống”. Nhà báo Phi này cũng dẫn
lời một đồng nghiệp định nghĩa feature như sau: “Một bài báo feature là bất kỳ bài báo nào
không phải ở dạng tin”.
Mấy thập kỷ trước, khi Hohenberg viết quyển Ký giả chuyên nghiệp, hẳn chẳng phải là tình cờ ông lại đưa feature vào chương sách với tựa đề “Vấn đề nhân cảm trong
tin tức”. Đó là vì cốt lõi của feature là nhân
cảm (human interest), những câu chuyện, những chi tiết thường làm lay
động lòng người.
Không hẳn là định nghĩa, nhưng có lẽ lời giải
thích sau đây của ba tác giả trên phản ảnh được điều tinh túy nhất của feature giúp phân biệt được thể loại này với các thể loại báo chí khác: “Trên
tất cả, feature chứa
đựng yếu tố nhân cảm đề cập đến đời sống của độc giả. Nhân cảm nằm ở vị trí trung
tâm của mọi bài báo (thuộc thể loại feature). (Khi viết feature), bạn cần
đề cập đến những gì độc giả nghĩ ngợi, lo lắng hay tò mò”.
Theo Stein, Patemo và Bumett, thông thường các
buổi họp hội đồng quản trị nhà trường hay hội đồng thành phố không phải là đề
tài cho một bài feature. Thế
nhưng, khi một công dân bất bình xuất hiện, lôi vào giữa phòng họp một cái
thùng rác để phản đối tình trạng tồi tệ trong việc thu gom rác gây ô nhiễm môi
trường, câu chuyện có thể hoàn toàn khác (tương tự như “ông hội đồng” Đặng Văn
Khoa đã từng làm trong phòng họp Hội đồng nhân dân TPHCM). Chuyện nộp thuế cũng
có khi trở thành một đề tài hấp dẫn. Có lần, với số tiền 3.000 đô la Mỹ nộp
thuế quá hạn toàn bằng đồng xu, một người trả thuế đã trở thành đề tài cho feature.
Feature nhiều khi chỉ là tiểu sử của các nhân vật (nhưng
phải thật thú vị), hoặc các tình huống trong đó cá nhân, gia đình hoặc cả cộng
đồng vượt qua được khó khăn để đạt được mục đích nào đó. Nhưng bất kể đó là gì
- Stein, Patemo và Bumett viết - feature cần tác động trực tiếp
đến cảm xúc của độc giả, khiến họ phải ngạc nhiên, giận dữ, say mê, hứng thú,
phấn chấn hoặc chỉ đơn thuần là ấn tượng bởi những gì được trình bày trong bài
viết.
Trở lại với “Ngọc trai trước bữa điểm tâm”[2], bài
báo đoạt giải thưởng Pulitzer 2008 cho thể loại feature. Trong bài feature được chuẩn bị rât công phu này,
điều mà tác giả Gene Weingarten và các nhà báo ở tờ Washington Post muốn chia sẻ với độc giả là đời sống hiện đại đã làm con người (ở đây cụ
thể là người Mỹ ở thủ đô Washington) thờ ơ với chính những kiệt tác của mình như thế nào. Nói khác đi họ muốn
biết khi đặt trong một bối cảnh không thích hợp (nhà ga thay vì phòng hòa nhạc)
và thời gian không thích hợp (buổi sáng giờ cao điểm thay vì buổi tối), liệu
những kiệt tác của nhân loại có đủ sức tỏa sáng hay không.
Theo ý tưởng táo bạo của bài báo, Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ vĩ cầm tài hoa nhất
của nước Mỹ và cả thế giới, vào vai một người hát rong, kéo vĩ cầm ở ga xe điện
ngầm L’Enfant Plaza lúc 7h45 sáng thứ Sáu, giờ cao
điểm. Trong 43 phút chơi đàn liên tục (chỉ trừ những khoảng lặng ngắn ngủi sau
mỗi bản nhạc), Bell đã trình bày sáu tác phẩm thuộc loại vĩ đại nhất của nền âm
nhạc cổ điển thế giới. Trong thời gian đó, các nhà báo của tờ Washington Post đã ghi nhận phản ứng của người qua đường đối với
buổi trình diễn của nhạc sĩ lừng danh này. Dù ăn mặc như người hát rong, Bell
vẫn sử dụng một trong những cây vĩ cầm hay nhất của mình (và cả thế giới). Vị
trí của anh cũng đã được khéo léo chọn để cho âm thanh đủ lớn đến được tai
những người vội vã đi ngang qua. Điều đáng buồn, theo lời Bell, là sự thờ ơ của
dòng người trước các tác phẩm âm nhạc anh biểu diễn. Gần như chẳng một ai trong
số 1.092 người đã đi ngang qua Bell dừng lại lâu để nghe thiên tài này chơi vĩ
cầm.
Theo bài báo, với họ, Bell gần như không tồn tại.
Trong số 40 người được các nhà báo Washington Post liên lạc sau buổi biểu diễn để phỏng vấn, duy
nhất một người nói rằng sự khác biệt giữa buổi sáng thứ Sáu hôm ấy với những
buổi sáng bình thường là có một người hát rong chơi vĩ cầm. Chấm hết! Một chi
tiết được Weingarten ghi lại
trong bài, có lẽ cũng khá điển hình cho thế loại feature trong
việc chọn lọc chi tiết, là đoạn tả một người muốn nán lại xem Bell biểu diễn.
Đó là Ivvie, ba tuổi. Nhưng Ivvie đã bị bà mẹ đang tất bật lôi đi mất.
Trong số hơn 1.000 người đi ngang qua Bell, người
duy nhất nhận ra được danh cầm này là Stancy Furukawa. Dù không biết mục đích của buổi biểu diễn, chị là
người hào phóng nhất khi cho vào chiếc hộp đàn của Bell tờ 20 đô la. Bài báo
cho biết đó cũng là món tiền lớn nhất Bell nhận được trong số tổng cộng 32 đô
la 17 xu sau 43 phút trình diễn. Để tiện so sánh, danh cầm này được trả 1.000 đô la cho mỗi
phút biểu diễn của mình!
Còn news feature thì sao?
Theo Stein, Patemo và Bumett, các nhà báo viết feature
có thể “ném công thức viết tin hình tháp ngược ra cửa sổ”. Nhưng bài báo feature vẫn phải có đủ các sự kiện có thật. Nói khác đi, feature không cần đặt 5W + 1H ở đầu bài viết và nhiều bài
feature
mở đầu bằng một câu
chuyện - hoặc là hài hước, gây ngạc nhiên, kể lại trải nghiệm cá nhân hoặc nêu
lên một nghi vấn. Không có công thức chung nào cho việc viết feature ngoài chuyện bài viết phải tuân thủ các quy tắc
hành văn cơ bản. Điều cốt lõi là bài viết càng thú vị với độc giả càng tốt.
Chúng ta hãy xem hai mở đầu khác nhau của hai bài
feature:
(1) Tuần nào cũng như tuần nấy Harold Pines lại đến thăm văn phòng trợ cấp thất nghiệp để
nhận tiền trợ cấp của mình. Ngày hôm qua cũng thế....
(2) Chỉ cần
thấy bóng dáng cây bút bi, các nhân viên tại trung tâm bảo tồn mới được thành lập của thư viện Huntington đã cảm thấy rùng mình.
Mở bài (1) có thể dùng cho một feature về anh chàng thất nghiệp Harold Pines nhận được tấm ngân phiếu trị giá 1,6 triệu đô la thay vì chỉ có 260 đô la như
thường lệ do lỗi của hệ thống máy tính.
Mở bài (2) đưa đến câu chuyện về kỹ thuật bảo
quản sách và tài liệu quý hiếm tại một trong những thư viện tư nhân danh tiếng
nhất của nước Mỹ. Bút bi bị cấm cửa vì mực bút bi có thể làm hư hại các tài
liệu quý giá được bảo quản ở đó.
Như đã thấy ở trên, “Ngọc trai trước bữa điểm tâm”
cũng được bắt đầu bằng việc mô tả Joshua Bell ở nhà ga L’Enfant Plaza. Đây là một bài báo dài gần 7.400 chữ, do nhiều
nhà báo góp phần thực hiện công phu (dù chỉ có Gene Weingarten được ghi là tác giả). Nhưng không phải bài báo feature nào cũng dài và công phu như vậy. Có một dạng feature khác ngắn hơn và thường xuyên xuất hiện trên
trang nhất của các nhật báo. Đó là news feature. Do vẫn còn khó khăn trong việc tìm thuật ngữ
tiếng Việt tương đương, chúng ta có thể tạm gọi nó là “tin dạng feature”.
Stein,
Patemo và Bumett cho rằng ngày nay news feature là một phần rất quan trọng (staple) của phần lớn các tờ
báo ở Mỹ. Có
hai lý do chính giải thích tại sao như vậy. Một, nhằm cung cấp cho độc giả những thông tin và
cách viết đa dạng hơn. Hai, nhằm giải thích đầy đủ hơn cách vận hành của một xã
hội ngày càng phức tạp. Tin dạng feature cũng lấy chất liệu từ
những sự kiện thời sự nhưng chọn hướng xử lý khác so với cách viết tin tức
thông thường. Ví dụ
như phóng viên thường chọn cách viết “tin trực thuật” để viết về các tai nạn xe
hơi. Nhưng nếu nạn nhân là một nhạc sĩ tài hoa 21 tuổi mất mạng vì nạn đua xe
trái phép, trên trang nhất số ra ngày mai có thế sẽ xuất hiện một news feature gây xúc động. News feature vừa có thể giúp các tờ báo trở nên thú vị hơn đối với bạn đọc, vừa tạo
cơ hội cho các phóng viên gây ấn tượng lên các chủ biên của mình qua cách họ thể
hiện và thu thập thông tin.
…
Nhưng tới đây xin mạn phép nói rằng đừng nhầm lẫn
feature với tư cách là một thể loại báo chỉ với văn học.
Tim Harrower, tác giả quyển Inside Reporting - A Practi- Guide to the Craft of Journalism (Viểt báo nhìn từ bên trong - Hướng dẫn thực hành kỹ năng báo chí) xuất bản năm
2007, cho rằng khi viết feature các nhà báo đã vay mượn ít nhất bốn thủ pháp văn
học từ các tiểu thuyết gia, bao gồm:
- Đối thoại sống động
- Xây dựng lại những cảnh có thật.
- Được nhìn nhận qua nhãn
quan và suy nghĩ của các nhân vật.
- Trong khi thu lại những
chi tiết thường thấy hàng ngày như y phục, vật dụng, cử chỉ, thái độ chứa đựng
ý nghĩa biểu trưng cao nhất.
Như vậy, feature
giống tác phẩm văn học ở chỗ có khả năng vẽ ra một bức tranh sống động về
một vấn đề trong cuộc sống được người đọc quan tâm hoặc làm họ hài lòng hay xúc
động. Tuy
nhiên, feature không phải là văn học. Vốn là một thể loại báo chí, như Stein, Patemo và
Bumett viết, feature “phải giữ lại các sự
kiện. Viết feature không phải là viết
tiểu thuyết cho dù nhà báo viết feature có được sự tự do rộng
rãi trên con đường thể hiện bài báo của mình”.
Đến đây, hẳn nhiều người vẫn còn nhớ câu chuyện
buồn của một cây bút được xem là tài danh của một nhật báo thuộc loại lớn nhất
Việt Nam. Với nhiều bài viết sống động dạng feature về nhân vật, nhà báo này đã gây dựng được tên tuổi của
mình. Nhưng rồi, sự nghiệp cầm bút đó tan thành mây khói khi người ta phát hiện
ra một bài báo của anh không phải là feature (nghĩa là phải dựa trên các sự kiện có thật) mà
lại là một tác phẩm văn học, sản phẩm của trí tưởng tượng!
Xin được trích nguyên văn một đoạn diễn giải của
Tim Harrower về feature. Theo chúng tôi, đây là lời giải thích thú vị giúp
chúng ta trả lời được câu hỏi làm thế nào xác định được một bài báo có phải là feature hay không. Ông viết như sau:
“Nhiều người hoài cổ cứ xem tin tức
(news) và feature như thể đó là hai thế
giới hoàn toàn khác nhau. Họ cứ khăng khăng rằng news
viết về những sự kiện
nghiêm túc (có nghĩa là báo chí đứng đắn), trong khi feature đề cập đến những thứ tạp nhạp còn lại (có nghĩa là
báo chí giải trí).
Ôi trời! Nói như vậy
có phần hơi đơn giản. Nhà báo thường gặp khó khăn khi phân biệt đâu là tin tức, đâu là feature. Tin tức thường chú mục vào các sự kiện thời sự và có tính chất công chúng (public): chính quyền, tội phạm,
thảm họa. Còn feature thường viết về các vấn
đề ít có tính chất tức thời hơn,
và liên quan đến cá nhân nhiều hơn: xu hướng, quan hệ, tiêu khiển. Tin tức cho độc giả biết chuyện gì
đang xảy ra; feature gửi đến độc giả lời
khuyên, trình bày các ý tưởng, khiến họ bật cười hay bật khóc”.
Có lẽ chúng ta chẳng lạ gì với định nghĩa tin tức hơi “thậm xưng”
nhưng rất dễ hiểu sau đây: Một con chó cắn người, đó không phải là tin tức; nhưng khi một
người cắn chó, đó chính là tin. Đến đây, xin lại mượn lời Tim Harrower khi ông cũng nói về câu chuyện liên quan đến chó,
người và cắn. Ông viết: “Một chủ bút khuyết danh có lần
nhận xét rằng khi một con chó cắn một người đàn ông, đó là tin tức. Con chó chạy nhanh như thế nào là
thể thao. Quá trình kiện tụng xảy ra sau đó là kinh doanh. Còn người đàn ông cảm thấy thế nào
khi con chó cắn ông ta, vì sao nạn chó cắn người đang hoành hành, hoặc những điều đầu tiên cần phải làm khi bị “cẩu
xực” lại là... feature”.
Nhưng một bài báo có phải là feature hay không, hay feature có phải là “phóng sự” hay không, cũng chẳng có gì
là quan trọng. Quan trọng hơn, đối với một nhà báo, là bài báo của mình có ở
lại được với độc giả hay không./.
[1] Anh Nguyễn Vạn Phú, Thư ký tòa
soạn TBKTSG cho thêm một định
nghĩa về feature trong báo chí.
Theo anh, feature còn có nghĩa
là “chuyên đề”. Nhận xét này của anh Phú có vẻ thuyết phục theo cách tờ Fortune (báo ra một
tháng hai lần chuyên về kinh doanh) sử dụng chữ feature trong phân mục lục của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét