THUẬT NGỮ BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
|
Thành
Hưng
|
1. THỂ LOẠI
Tiếng Anh: genre
Là tập hợp những đặc điểm
rút ra từ hàng loạt các tác phẩm ngôn từ, nghệ thuật, được khái quát và biểu
hiện bằng một thuật ngữ có tính ổn định tương đối trong một hệ thống các phương
tiện phản ánh đời sống và sáng tạo tác phẩm.
Lý thuyết thể loại là lý
thuyết phát triển trên cơ sở quan sát và phát hiện những yếu tố chung tiềm ẩn trong nhiều tác phẩm, để tiến tới loại hình hoá chúng thành những nhóm
tác phẩm có sự gần gũi, thống nhất về đề tài, kết cấu, thủ pháp mô tả, phản
ánh, lịch trình phát sinh cùng sự vận động biến đổi của chúng trong lịch sử. Sự
phần chia thể loại vì vậy không
phải là sự phân chia cơ giới, mà chỉ mang ý nghĩa tương đối về phương diện lý
thuyết.
Trong thực tiễn báo chí,
các thể loại báo chí luôn có sự ảnh hưởng, giao thoa, tiếp nhận và loại bỏ
những ưu thế, đặc điểm của nhau. Các thể loại báo chí xuất bản bằng giấy in đã
tạo tiền đề cơ bản cho các thể loại truyền thanh và truyền hình xuất hiện.
Ngược lại, sau khi truyền thanh và truyền hình ra đời và phát triển, các thể báo in cũng tiếp nhận những ảnh
hưởng của tư duy truyền
thanh, đặc biệt là kiểu “tư duy truyền hình”, như: thủ pháp cắt ghép, thủ pháp miêu tả có tính đổng
hiện, tiếng vọng - độc thoại nội tâm của nhân vật v.v. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, hơn hẳn mọi
thể loại của văn học nghệ thuật, các thể loại báo chí không chấp nhận những
quan niệm khuôn thước cố định, nhất thành bất biến trong lý luận. Các quan niệm về thể loại chỉ có chức năng của người trợ
thủ, gọi ý cho nhà báo tiếp cận hiện thực, khai thác, xử lý và diễn đạt thông
tin nhanh hơn. Nhiều nhà báo nghiệp dư đến với hoạt dộng báo chí một cách hổn
nhiên, hoàn toàn không có ý thức gì về thể loại nhưng vẫn rất thành công.
Thực ra, bằng việc đọc sách báo hàng ngày, họ đã tiếp nhận kinh nghiệm thể loại
một cách vô tư,
bất tự giác, đồng thời bằng trí thông minh và năng khiếu bẩm sinh, họ
nhanh chóng đặt bút mình tuân thủ tư duy thể loại. Bởi vì xét cho cùng, thể
loại chính là trí nhớ, là ký ức chung cùa loài người vể văn hoá.
2. TẢN VĂN
Theo
quan niệm của người Trung Quốc cận đại, tản văn là văn xuôi
nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tuỳ bút, tiểu
phẩm, tiểu luận. Các tiểu thể loại vói những cách định danh khá ngẫu hứng, tự
do như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, phiếm luận,
tạp trở, đoản văn... cũng được xếp vào phạm trù tản văn.
Như vậy, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đắc dụng khi bản thân tác giả
không ý thức được hoặc không cần
quan tâm tới việc tác phẩm cùa mình được viết theo thể loại nào: tạp văn
hay tiểu phẩm, tiểu luận hay phiếm luận, phiếm đàm. Loại trừ các thể
văn vẩn, thơ ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, khái niệm tản văn
đứng ra như một khái niệm dung hoà các đường biên thể loại.
Đặc điểm phổ quát của
tản văn là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên của quan
điểm, cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự
linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các
chi tiết. Vị thế của chủ thể tản văn nhìn chung là vị thế cao đàm, ung dung tự tại, vượt lên thói thường,
đưa đường chỉ lối cho độc giả khám phá thời cuộc, trải nghiệm cuộc sống, hoặc
cảm nhận những khía cạnh mới mẻ, ý vị của đời sống nhân sinh.
Tản văn là thể văn trữ
tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí. Nếu nói về các cây bút tản văn, phải
nghĩ ngay tới các nhà văn nổi tiếng như Lỗ Tấn (tạp văn) Tản Đà (tuỳ bút), Ngô Tất Tố
(tiểu phẩm), Nguyễn Tuân
(tuỳ bút), Vũ
Bằng (tuỳ bút, thời đàm), Hoàng Phủ Ngọc Tường (bút ký), Băng Sơn (đoản văn)
v.v. Các chuyên mục tản văn hiện nay xuất hiện khá đều trên nhiều tờ báo Việt Nam. Cách đặt tên chuyên mục có thể dựa thẳng vào thể
loại, cũng có thể dựa theo đề tài, gắn liền với các hình ảnh ẩn dụ hoặc lối nói
chào mời đối thoại, như Hà Nội tạp văn, Phiếm đàm, Sau luỹ tre làng, Nghĩ mà coi,
Mỗi ngày một chuyện, Nói hay đừng v.v.
3. TẠP VĂN
Là một thể tản văn giàu tính luận chiến về một đề tài chính trị, xã hội nào
đó có ý nghĩa thời sự. Tạp văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ
thuật sinh động. Trong
số các thể tản văn, tạp văn là thể giàu tính báo chí hơn cả. Nếu như “tâm thế tản văn” là tâm thế
nhàn tản, ngâm ngợi, thích ứng với lối cảm nhận điềm tĩnh, suy tư thì thể tạp văn vượt lên như một
thể loại xung kích, phản ứng nhanh nhậy, kịp thời trước những vấn đề bức xức
của đòi sống xã hội...
Tạp
văn hoàn toàn xa lạ với không gian điền viên và các nhu cầu thư dãn, giải trí.
Ở Trung Quốc, tạp văn ra đời trong không khí nỏng bỏng của phong trào cách mạng
Ngũ Tứ (1917- 1924). Không khí cách mạng đó phần nào ấn định tính chiến đấu của
tạp văn. Lỗ Tấn ngay trong những năm cách mạng đó đã mài sắc ngòi bút tạp văn,
đưa thể văn này đạt tới tầm cao nghộ thuật, ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, các
nhà văn kiêm nhà báo như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng v.v.
đều tận dụng hiệu năng công luận cửa tạp văn, tạo dựng được môi trường độc giả
riêng cho thể loại này được nuôi dưỡng và phát triển.
4. TIỂU PHẨM
Tiếng Anh: feuilleton,
newspaper satire;
từ nguyên gốc tiếng Pháp:: feuillton = tờ giấy, chiếc lá.
Do sử dụng thuật ngữ bằng
từ Hán Việt, “tiểu phẩm” được
hiểu một cách thông dụng như một tác phẩm ngắn gọn, nhỏ lẻ, có dung lượng khiêm tốn, chỉ lưu ý tới “lượng” chứ
không tới “chất” của tác
phẩm.
Trong lĩnh vực truyền
thông, đặc biệt là báo in, tiểu phẩm là thể loại có vị thế tương đối cổ điển.
Thời kỳ đầu xuất hiện, tiểu phẩm còn nằm lẫn trong các trang phụ trương quảng
cáo gắn kèm với các
trang chính của tờ báo. Nổi tiếng nhất trong số các trang phụ trương tiểu phẩm và quảng cáo này là phụ trương của nhà văn Lessing cho tờ báo Đức Vossische Zeitung, xuất bản từ năm 1751 đến năm 1755.
Vì có nội dung châm
biếm, hài hước về những chuyện sinh hoạt đời sống, có chức năng giải trí là chủ
yếu, tiểu phẩm được phép phát triển nằm ngoài sự quan
tâm của bộ máy kiểm duyệt chính thống. Sự
nhận biết và “khai trương” thể loại chính thức diễn ra vào năm 1800, khi chủ
bút tờ báo Pháp Journal des Débats là J. Geoffroy quyết định di chuyển tiểu
phẩm cùng mục quảng cáo từ các trang phụ trương vào nửa dưới trang nhất của mỗi
số báo. Những số báo đầu tiên, ông in các bài phê bình sân khấu của mình. Nửa
dưới trang báo được ngăn với nửa trên bằng một vạch kẻ ngang, mực đậm, với mục
đích lưu ý độc giả rằng đây là phần được miễn kiểm duyệt. Về mặt đồ hoạ kỹ
thuật, bài tiểu phẩm thường được in bằng kiểu chữ nghiêng và được đóng khung.
Được sáp nhập vào trang báo chính thức, thể tiểu phẩm bắt đầu một lịch sử phát
triển cùa nó. Nhiều ký giả và nhà văn nổi tiếng như Th.Gautier, Ch.A.
Sainte-Beuve (Pháp), I.S. Puskin (Nga), H. Heine (Đức),
K. Oapek (Séc), đều tham gia
viết tiểu phẩm. Một số nước còn gọi tiểu phẩm bằng cái tên nôm na là “bài dưới
vạch” (podcara - Séc), tức là dưới vạch cấm, hay khu vực “phi kiểm duyệt”. Các
bài tiểu phẩm càng ngày càng hấp dẫn độc giả và ảnh hưởng sâu rộng tới đông đảo
công chúng. Đề tài của tiểu phẩm mở rộng đần trên các mặt của đời sống văn hoá
- xã hội và nghệ thuật. Vì bị giới hạn
về dung lượng chữ, tiểu phẩm phát triển theo xu hướng dồn
nén thẩm mỹ và bắt đầu một lịch trình giao thoa loại hình. Bằng lối viết nhẹ
nhàng, hóm hỉnh, phân tích, bình luận một cách hài hước, các cây bút
tiểu phẩm đã đưa thể loại này xích lại gần văn học, tới mức có nhà nghiên cứu (J. Táborská) cho rằng đây
chỉ là một thể loại văn học xuất hiện và phát triển nương nhờ trên “đất
báo”.
Tuy vậy, thực tiễn và sự
khái quát lý thuyết về tiểu phẩm không phải có sự thống nhất ở tất cả mọi nước.
Hiện tại, ở Đức, khái niệm “feuilleton” được
dùng để chỉ tất cả các bài báo ngắn in trên các trang phụ trương, viết về văn hóa, xã hội, giới
thiệu và phê bình văn học nghệ thuật, kể cả những bài bình luận chính trị và
không tính tới chất hài hước, châm biếm ở đó có hay không.
Ở Việt Nam, tiêp nhận những ảnh hưởng tinh hoa của
hai nền văn hoá lớn là Pháp và Trung Quốc, các nhà báo Nguyên Ái Quốc, Ngô Tất
Tố thực sự là những cây bút tiểu phẩm tiên phong của báo chí Việt Nam hiện đại.
Di sản tiểu phẩm của hai tác giả ngay từ đầu đã hội đủ không chỉ những thuộc
tính phổ quát của thể loại feuilleton phương Tây mà còn có sự bổ sung các đặc
điểm mới: tính chiến đấu và sự can dự sâu rộng vào địa hạt chính trị. Tiểu phẩm của báo chí đầu
thế kỷ này ở Việt Nam thường xuất hiện trong các chuyên mục như ‘‘Nói mà chơi”, “Thời đàm”, “Mua vui cũng được một vài
trống canh”, “Nói hay đừng” v.v.
5. BÀI BÁO
Tiếng
Anh: article; từ nguyên gốc Latinh: articulus = phần đoạn
Trong một quan niệm rộng rãi, không có tính chuyên
ngành, bài báo là bất kỳ văn bản nào có tác giả công bố trên mặt báo trừ các
mẩu tin. Trong quan niệm mang tính chuyên ngành, bài báo là một tác phẩm báo chí
có nội dung và hình thức hoàn chỉnh, xuất hiện như một bức thông điệp chứa đựng
một thông tin cốt lõi có mô tả, lý giải rõ ràng, cụ thể, lôgic và dễ hiểu một
sự kiện, hiện tượng hoặc một vấh đề, quan niệm nào đó đang có ý nghĩa thời sự
và ý nghĩa xã hội quan trọng. Tác giả bài báo phải tìm kiếm các mối
liên hệ, xác định nguyên nhân, hệ quả, phân tích, xếp loại sự
kiện, bổ sung các bằng chứng và đưa ra được những nhận định khái quát. Nội dung bài báo được tạo
bởi những tư tưởng, quan niệm cơ bản, mang tính chính thống hoặc là quan niệm
cùa một tập thể, cộng đồng kết hợp vói các luận chứng, chứng cứ cụ thể. Bên
cạnh đó, bài báo bao giờ cũng chứa đựng thái độ chủ quan cùa tác giả qua sự
đánh giá, phân tích, qua cả kết cấu, ngôn ngữ, bút pháp, vì vậy những bài viết
thành công thường được xếp vào khu vực những tài liệu truyền thông có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu và quản lý xã hội. Có thể tính ra
nhiều dạng bài báo thuộc nhiều thể loại khác nhau, như: bài bình luận, bài xã
luận, bài phân tích, bài phản ánh, bài tiểu luận, bài phóng sự, bài điều tra,
bài ghi nhanh, bài tường thuật, bài phê bình tác phẩm văn nghệ. Các bài tiểu phẩm, bài phỏng vấn và những bài viết không có tính nghị luận, không tính
chủ thể rõ rệt thường không được coi là bài báo, tức là không được xếp vào nhóm
thể loại thông dụng nêu trên.
“Bài báo” là một thuật ngữ không có sự thống nhất
về nội dung giữa thực tiễn sử dụng và nghiên cứu lý thuyết. Ngay cả các nhà báo
chuyên nghiệp hàng ngày vẫn có thể sử dụng từ “bài báo” chỉ để phân biệt với
các sản phẩm không phải là “bài”, như Tin và Ảnh, giống như các gọi thông
thường của độc giả. Trong nghiên cứu lý thuyết, xuất phát từ các tài liệu báo
chí học Nga và Đông Âu, ở Việt
Nam, khái niệm “bài báo” chỉ được giới hạn trong phạm vi những bài đưa tin dài, đôi chỗ
còn được gọi là thể loại “bài thông tấn”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét