MỘT NHÀ BÁO GIÀU LÒNG
YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN
MỘT NGƯỜI BẠN ĐƯỜNG
CỦA PHONG TRÀO MẶT TRẬN DÂN CHỦ
|
Phan Cự Đệ
(Rút ta từ Ngô Tất Tố tác phẩm – tập 1)
|
Những
người viết
báo kỳ cựu ở nước ta Cách mạng tháng Tam không ai có thể quên được cái tên Ngô Tất
Tố, một cây bút chiếu đấu già đặn và sắc bén, đã một thời tung hoành trên các báo Hà Nội, Sài Gòn. Ngô Tất Tố là một nhà
báo nổi
tiếng trước khi bước vào làng văn. Cứ xem bài viết sau đây
của Vũ Trọng Phụng cũng đủ đánh giá tên tuổi của ông:
“Ngô Tắt Tố là một nhà báo về phái Nho học và là
một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho. Làng báo Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ cũng như độc giả, hẳn không ai mà lại không biết danh tiếng người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An
Nam tạp chí và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu, bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị
trong nhiều tuần báo và tạp
chí, cả Nam lẫn Bắc, Với cái sự được đời hoan nghênh ấy, Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu nữa, nếu ta chỉ kể trong phạm vi ngôn luận…”[1]
Ngô Tất Tố đã từng tham gia viết
Annam tạp
chí, Thần Chung, Phụ nữ tân
văn, Đông Phương, Phổ thông, Công dân, Hải
Phòng
tuần báo, Tương lai, Việt nữ, Tiều thuyết
thứ
ba[2]; Thời vụ, Đông pháp, Hà Nội tân văn... với các biệt hiệu quen thuộc như Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn
Dân, Phó Chi, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Đạm Hiên[3],
Hi Cừ v.v...
Trên
các báo,
suốt từ 1929 cho đến 1942 -1943 Ngô Tất Tố chuyên sử dụng một loại văn tiểu phầm để vạch những chuyện chướng
tai gai mắt, những chuyện bất
công ngang trái trong xã hội. Thời ấy, hàng ngày người đọc rất thích những bài bình luận ngắn gọn về xã hội, chính
trị, thời sự, văn nghệ, giáo dục, tâm lý, phong tục... của Thục
Điểu trong mục Nói chơi
trên tờ Đông
Phương, của Phó Chi trong mục Nói
mà chơi trên Tương Lai, của Xuân Trào trong mục Gặp đâu nói đấy; Thật hay bỡn trên Thời
Vụ, của Hi Cừ trong mục Chuyện
hàng ngày trên Đông Pháp... Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đứng về mặt thể loại, gần gũi phần nào với tạp văn của Lỗ Tấn, bao gồm những bài cảm nghĩ vụn vặt (tạp cảm)
luận văn bút chiến, tùy bút, bút ký, nhật ký, bình luận thơ văn, khảo cứu văn học, thơ bằng văn xuôi... đăng đều trên tạp chí Tân
thanh niên từ 1918. Loại
văn châm biếm
này phù hợp với
yêu cầu kịp thời, gọn, nhẹ, súc tích của thế loại văn chiến đấu trên báo chí hàng ngày, khuôn khổ của nó phù hợp với điều kiện thì giờ của cả người viết lẫn người đọc. Cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc càng gay go, quyết liệt, những sự kiện dồn dập xảy ra hàng ngày đòi hỏi nhà báo phải có mặt kịp thời, ngòi bút châm biếm phải nóng hổi tính chất thời sự. Kẻ thù càng hung ác, xảo quyệt, thâm hiểm thì nhà văn càng phải mài sắc ngọn bút, làm cho nó trở thành một vũ khí lọi hại hơn. Cũng như Lỗ Tấn, Ngô Tất Tố quan niệm rằng “Văn tiều phẩm muốn tồn tại thì phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng, có thể cùng vói người đọc mở một con đường sống bằng máu[4]”
Văn tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố dường như làm thành một bộ sử biên niên của xã hội Việt
Nam những
năm từ trước sau 1930 cho đến hồi đại chiến thế giới lần thứ hai. Trong khi một số người
bạn “lều chõng” của mình từ chối, thây kệ cuộc
đời, ngâm vịnh phong hoa tuyết nguyệt thì nhà nho yêu nước thương dân này vẫn luôn
luôn quan tâm đến thời cuộc, băn khoăn lo lắng cho vận mệnh của dân
tộc. Lắng nghe những khát vọng tha thiết của quần chúng (nhất là của những người nông dân nghèo khổ ở quê hương mình), đón nhận
những luồng gió mới từ cao trào cách mạng thời kỳ Mặt trận Dân chủ,
những điều kiện đó đã tạo cho nhà văn khả năng nắm bắt nhạy bén tình
hình chính trị, phân tích sâu sắc những vấn đề bản chất của sự kiện, ít khi bị hoa mắt
bởi những hiện tượng ngẫu nhiên đan nhau rối rắm trên bề mặt của sự sống, bị
lừa dối bởi những lời lẽ mị dân phỉnh phờ của giai cấp thống trị. Trong
mọi vấn
đề thời sự, Ngô Tất Tố đều có ý kiến độc lập và suy nghĩ độc đáo của riêng mình.
Như
một chứng nhân trung thành của thời đại, bằng nghệ thuật tiểu phâm, Ngô Tất Tố ghi lại cho chúng ta những sự kiện chính trị quan trọng trong nước thời kỳ đó: phong trào Đông Dương đại hội với những cuộc biểu tình rầm rộ đón “lao công đại sứ” Gôđa
ở các thành phố Bắc kỳ, phong trào Mặt trận
Dân chủ với những cuộc đấu tranh của báo gioi đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp, những cuộc đình công khổng lồ của “lao động Đông Dương” từ “phu phen thuyền thợ” cho đến “mấy nghìn phu xe Hà Nội” để đòi tăng lương, những cuộc biểu tình của nông dân Thanh Hóa và những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ của hàng ngàn nông dân Bạc Liêu, Rạch Giá... Ngô Tất Tố cũng lên án “chính sách độc tài của Hit le”, những “thủ đoạn chuyên chế của Muytxôlini” và cái thói tàn bạo của bọn quân phiệt Nhật Bản... Nhà bình luận thời sự “Bàn cờ thế giới” đã phê phán thái độ nhu nhược của hai thủ tưóng Anh, Pháp, Xămbec- linh và
Đalađiê, trong hội nghị Muynich để giải quyết vấn đề Đức Tiệp, đã công kích
hành động tráo trở của tên phát xít Hit le khi hắn xem hiệp ước Đức Pháp vừa mới ký chẳng hơn gì tờ Tích Việt của chàng sở Khanh, khi hắn ủng hộ Muytxôlini trong việc đòi Tuynidi của Pháp, đã cảnh cáo cái việc “có hại đên âm công” của tổng trưởng Măngđen bộ thuộc địa Pháp chủ trương di dân Việt Nam sang Phi châu và đưa năm vạn người Do thái vào Bắc kỳ!
Mặt
khác Ngô Tất Tố cũng tỏ ra có một kiến thức rộng rãi và khá
sâu sắc về nhiều mặt khi ông bình luận về việc tên “phó sơn họ Hít” làm bẽ mặt Giáo hoàng La-mã, việc cựu hoàng đế nước Á bán chiếc mũ tôn vương cỏ 718 viên bảo thạch và so sánh chiễc mũ nặng bảy cân đó với mũ miện của các Thiên tử Trung Quốc có 12 tua toàn bằng
châu ngọc, về cái lý lịch bà thần ở đền Hàng Trống người đã “xúi dục” cô Võ Thị Cúc vừa đâm vừa chém ông huyện Trường đào mỏ 34 nhát, về những tiếng đàn độc, đàn tươi, đàn xảo ở đất thần kinh cũng như về bài thơ của Vương Bột làm ở Đằng vương Các khi cái gác nổi tiếng ở trên Chương Giang thuộc đất “Nam xương cố quận, Hồng-châu lân phủ » bị quân Nhật tàn phá...
Toàn
bộ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố làm
thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam những năm trước Cách
mạng tháng Tám, nó đã cung cấp cho chúng ta những tài liệu quý giá về văn học,
sử học, xã hội học, dân tộc học... (phong phú nhất là những tài liệu về
nông thôn và nông dân Việt Nam).
Văn
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là một phòng triền lãm những chân dung khác nhau của giai cấp thống trị và những kiểu người
điển hình trong xã hội cũ. Ngày nay thanh niên đọc tiểu phẩm của Ngô Tất Tố có thế không biẽt rõ lý lịch của những lên như Tôlăngxơ đại nhân, thủ hiến Bắc kỳ, Pagie (Pagès) thống đốc Nam kỳ, Võ hiến Hoàng Trọng Phu, Thượng thư Phạm Quỳnh, Bắc kỳ nghị trưởng Phạm Huy Lục, “Bắc kỳ nghị trưởng Lê me xử” (Lê Văn Tân), “Bùi Quang Chiêu đại nhân”, lãnh tụ đảng Lập hiến hữu danh vô hình ỏ Nam kỳ và cuối cùng là một nhân vật có cái tên dài lòng
thòng như dây muống: “Hiệp tá đại học sĩ sung Bắc kỳ Phật giáo hội hội trường, kiêm Hà Nội Quán sứ tự trụ trì Nguyễn Năng Quốc đại nhân”'!
Tuy
nhiên điều đó không quan trọng vì tiểu phẩm của Ngô Tất Tổ phê phán
những nhân vật điển hình trong xã hội thực dân phong kiến chứ không
phải là một bô “văn tuyền chửi người” nhằm trả thù và thóa mạ cá nhân. Tên của những nhân vật nói trên có thể coi như những danh từ chung chỉ bọn tai lo mặt lớn, bọn vẫn xưng là quý tộc thượng lưu đương thời. Lý lịch cá nhân của chúng nhiều khi chúng ta
không cần tra cứu, cứ biết đó là “những tài chủ, nghiệp chủ, điền chủ cùng những danh công đại thương”, “những quan lại công chức người Pháp” giàu có phởn phơ trên “cái xử bờ xôi ruộng mật này”; đó là “những: người đóng vai ông chủ, từ chủ hầm mỏ trở đi, phần nhiều là bậc “ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột chẳng có khi nào bỗng
nhiên vô cớ lại động dại mà tăng lương cho một người nào” ; đó là những hạng con buôn “ngoài những kẻ buôn thuốc phiện lậu, buôn giấy
bạc giả, buôn dân, buôn nước, buôn nghị trường… cũng có lắm kẻ nghĩ ra nghề buôn tôn giáo mà đại phát tài”; đó là những ông “dân biểu đương thứ”, trên đầu treo cái án “bốn năm đằng đẵng không làm cho dân việc gì” mà còn “dùng nghị trường làm nơi tranh việc thầu khoán, tranh mối hàng buôn”,
“làm chỗ lấy lòng chính phủ để mưu việc tư lợi”; đó là “những chiếc mặt” hội viên thành phố, “không phải chỉ đế bầy cho
đủ lệ bộ ở tòa đốc lý”, “không như những mặt nạ ở rạp Quảng lạc
chỉ đế xem chơi cho vui” ; đó là “những ông” không thèm biết chủ nghĩa xã hội là gì nhưng cũng
cứ xin vào chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) đê mượn tiếng tranh cử nghị viên, lường gạt quần chúng “Phường trò ra hề còn phải bôi một lượt nhọ vào mặt chữ họ đóng vai đảng viên xã hội không hề dính một tý son nào của quốc tế thứ hai”; đó là “một số rất lớn cụ lang,
ông lang, chú lang, anh lang đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và
kỹ sư của nghề bịp”; đó là mấy kẻ làm nghề bán thuốc hạ bộ “xứng đáng treo, làm câu đối hai câu “Hán tự chẳng biết Hán, Tây tự đếch biết Tây của ông Tu Xương”, “mả tổ của hẳn chỉ có ống thụt, không có quản
bút”, ấy thế mà dám “táo bạo vác cái bằng sơ học
yếu lược
để theo vợ vào làng báo” ; cuối cùng đó là những
bậc “thượng lưu vẫn vui vẻ khuyên vợ cắm sừng lên đầu cho mình,
muốn chóng thăng quan tiến chức còn cố cưới thêm nàng hầu đề chuyên giúp mình vào việc đó nữa”. Hóa ra “cái chuyện mọc sừng” chẳng những họ không cho
thể là nhục, họ còn lấy thế làm vinh nữa chứ !”Vũ Trọng Phụng đã từng tập họp và tố cáo những bộ mặt đểu cáng bịp bợm của lũ công giới và thưong giới, của
bọn
quan lại Pháp Nam, trong cái ấp Tiêu Vạn trường thành của Nghị Hách, con ở đây Ngô Tất Tố lẩn lượt điểm danh từng loại một, đóng
cho chúng những dấu ấn nguyền
rủa muôn đời để mỗi khi chúng ra cửa này vào cửa kìa, đeo mặt nạ dở trò đánh tráo lộn sòng thì quân chúng sẽ vạch mặt chỉ trán.
Ngay
từ những bài báo đầu
tiên, Ngô Tất Tố đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Vào đầu những năm 30, trước cao trào đấu tranh cách
mạng của quần chúng do Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo, đặc biệt là
phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bọn thực dân Pháp và bè lũ bù nhìn phong kiến phải đưa ra một số
chính sách ngu dân và mị dân, đồng thời mở ra những “lối thoát” nhằm làm cho thanh niên xa rời đấu tranh cách mạng hoặc dần dần sa ngã vào con đường trụy lạc. Đó là phong trào chấn hưng Phật giáo, phong trào phục cổ, bảo tồn quốc túy, phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung và những phong
trào cải lương ở nông thôn và thành thị (đặc biệt là vào năm 1932
khi Bảo Đại ở
Pháp về làm vua) ; thực dân Pháp cho bọn bồi bút Quỳnh, Vĩnh làm ồn ào
xung quanh cải gọi là bảo hộ, trực trị, nhằm đánh lạc hướng trí thức.
Với
khí tiết của một nhà nhơ yêu nước và tiến bộ, với trí
tuệ sắc sảo và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi bút châm biếm, Ngô Tất Tố tìm đủ mọi cách phơi trần ra ánh sáng, mặt trái đen tối
bẩn thỉu của những phong trào bịp bợm nói trên “cứ muốn tát một tát vào bộ mặt trang nghiêm cao thượng”[5] giả dối của bọn Ihống trị, chỉ muốn lật cái “vung bằng vàng che đậy thẩu ruốc thịt người”[6]
của chế độ thực dân phong kiến.
Trong
thời kỳ thoái trào cách mạng, chính quyền thực dân cho phát
hành rộng rãi những loại sách truyền bá mê tín dị đoan như sách “xem tướng”, sách “xem bói”, sách “lấy số tử vi”, sách “ma cà rồng”, sách học thôi miên. Đặc biệt năm 1932 chúng cho lập hội Phật giáo ở Nam
kỳ và Trung kỳ, năm 1934 lập hội Phật giáo Bẳc kỳ do “quan sứ” Nguyễn Năng Quốc đứng đầu. Phật giáo có tổ chức, có báo chi và tuy cùng múa may dưới cái gậy chỉ huy của thực dân nhưng nhóm tổng đốc Hoàng Trọng Phu và nhóm hiệp tá đại học sĩ Nguyễn Năng Quốc vẫn bút chiến với nhau
như hàng tôm hàng cá[7]
Phong
trào Phật giáo và phong trào Âu hóa nhìn bên ngoài có vẻ rất xa lạ với nhau. Nhưng do vai trò đạo diễn của thống sứ Bắc kỳ nên lại có mệt sự kết hợp kỳ lạ giữa hai
phong trào đó. Nhiều cô thiếu nữ mặc áo lơ muya, đi chợ phiên, cũng đến lễ bái ở các đền chùa. Một số tăng lữ lợi dụng nơi tu hành đề làm
những việc dâm ô, bì ổi. Việc ni cô Diệu Lý (nam
giới cải trang làm ni cô) cùng với sư cụ ra tòa đã làm cho các báo xôn xao lên một dạo. Ngô Tất Tố đã viết một loạt bài đả kích mê tin dị đoan, vạch mặt bọn lợi dụng tôn giáo, bọn buôn thần bán thánh (Chủ
nghĩa tự do luyến
ái đẵ
lan đến
giới
thần thánh, Phải
hỏi ngôi
đền ấy thờ ông
nào
đã?,
Những việc
đáng ghi chép của phòng Canh nông Nam
kỳ, Họ lại kiếm ăn vào nắm xương khô).
Tiêu biều cho những bài ấy là Kiều đất ở phố Hàng Trống. Ngô Tất Tố tìm cách cắt nghĩa tại sao ngôi đền Nghiễn thiên muội ở
phố hàng Trống “choèn choèn bằng cái quán bán nước” mà lại được “đàn bà con gái đến lễ đông như nêm cối”?
“Trước kia minh vẫn tưởng
vì đền này thần thiêng cho nên đông khách lễ bái, đến nay xét ra mới biết sự đông khách đó không tại
thần thiêng mà chỉ tại “được đất”. Bởi vì ở đó có phải chỉ có một mình cửa đền ấy mà thôi đâu, hai bên tả hữu còn có hai cái “săm” nữa, nghe nói cả hai đều
được “đêm đêm hàn thực ngày ngày nguyên tiêu” cả. Theo câu tục ngữ “tốt đất cò đậu” thi có lẽ phố Hàng Trống là chỗ
đất tốt cho nên một đền hai “săm” đều phát phúc như thẽ,
không biết mạch đất từ ngôi đền chạy sang hai ngôi “săm” hay là từ hai ngôi “săm” chạy về ngôi đền ?”.
Cũng
trong thời kỳ thoái trào cách mạng, bọn thực dân lại cho dấy lên phong trào “bảo tồn quốc túy”. “Tờ báo nọ hô hào bạn gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng xó bếp, tờ báo kia cổ động dân quê nên duy trì cái thói tục ở góc điếm sân đình, lại một cuốn tạp chí nọ hàng tuần
đem những cặn bã ở
nơi cửa Khống, sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả”. Ở đâu mà bọn thực dân chẳng phải dựa vào các thế lực phong kiến và ý thức hệ của nó. Để làm tê liệt ý chí đấu tranh cách mạng của quần
chúng thì đạo Khổng và các thứ tôn giáo khác là những liều thuốc ngu đần, là thuốc phiện đầu độc quần chúng tốt nhất.
Từ trước đến sau, trong toàn bộ các tác
phẩm của mình, Ngô Tất Tố kịch liệt chống lại phong
trào “bảo tồn quốc túy”. Ông cũng nghĩ rằng túy là cái đặc biệt, vị tất đã hay, vì như cục thịt thừa trên mặt cũng đặc
biệt đấy, có cần phải bảo tồn hay khôug? Cái khoa “quỳnh rượu hát hãm”, môn học “xe pháo mã tốt”... thì có gì hay mà gọi là quốc bồn quốc túy? Ông mượn lời một nhà tiên tri đê
mang bọn nhà báo vô lương tâm, một lũ bồi bút của thực dân đang nấp dưới chiêu bài bảo tồn quốc túy đề hàng ngày công
khai đầu độc quần chúng:
“Từ thời các ngài khuyến khích chúng tôi... học hát ả đào đến thời kỳ các
ngài chỉ dẫn chúng tôi đánh tỗ tôm, đánh cờ tướng, chẳng
qua trong vòng mười năm. Theo luật tiến hóa, chắc là sau mười năm nữa, sẽ có những
ngài đem cái thành tâm đối vói chủng tộc giang sơn đầy ăm ắp, nóng hôi hổi mà cổ động, cho quốc dân học những món quay đất thò
lò, vì nó cũng là món chơi đặc biệt của dân tộc Việt Nam, bấy giờ quốc dân chúng tôi sẽ nhờ ơn các ngài mà được mở mặt rạng mày với thế giới.
Nói
đến đây, mình toan hỏi vặn lại thì nhà tiên tri kia trông mình mà nhổ toẹt xuống đất một bãi rồi ngoảnh mặt đi” (Mười năm nữa báo chí Bắc kỳ sẽ cổ động thò lò quay đất).
Tử
những năm sau 1930 cho đến đại chiến thế giới lần thứ hai, Ngô Tất Tố liên tục tấn công vào
những phong trào trụy lạc hóa thanh niên, vào những sách, báo lãng mạn, khiêu
dâm sa đọa, ông công kích thái độ chính trị cua “mấy ông trưởng giả” ở báo Ngày nay, những người đã đề xướng lên phong trào Âu hóa và vui vẻ trẻ trung. Cái nguy hiềm của nụ cười Phong hóa và Ngày nay là đã “đem giọng trào phúng pha vào những chuyện quan hệ khiển cho trong óc độc
giả, chuyện quan hệ hóa ra chuyện khôi hài”. Cái việc đưa bản dự thảo dân nguyện cho phái bộ Gôđa là một việc quan hệ tới vận mệnh dân nưóc “Thế mà mấy ông đồng nghiệp ở
đường Quan Thánh lại định làm cho việc quan trọng thành ra việc “Lùng tùng xòe!” Cái đó mới nhẫn tâm chứ!”
(Đừng giở
mẩy ngón ấy ra nữa. Tôi can mấy ông Ngày nay).
Theo
ý Ngô Tất Tố, phong trào vui vẻ trẻ trung thực chất là một phong trào sa đọa, tuyên truyền cho “chủ nghĩa khoái lạc về nhục dục” nhằm trụy lạc hóa thanh
niên thành thị (Khổng
nên quên một bọn văn sĩ, Sao
không hỏi Tự lực Văn
đoàn). Vì thế những ông ở báo Phong
hóa, Ngày nay ưua nay không thấy sốt sắng với một việc gì, ngoài cái việc dùng môn
giáo dục “đánh phấn, xoa nước hoa, lựa màu quần áo” “đề câu nhử bạn đọc phụ nữ”. Họa sĩ Cát Tường Lơmuya (Lemur) tuy “đậu thứ bét trường Mỹ thuật” nhung vẫn là “bậc vĩ nhân” trong việc “cách mệnh” “mấy cái gấu quần gấu áo của
bạn gái kẻ
chợ”! (Xin nhờ Lơmuya Cát Tường việc này nữa).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét