TIẾP CẬN VỀ PHONG CÁCH NGÔ TẤT TỐ
QUA CÁC TÁC PHẨM TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA ÔNG
|
(Tài liệu tham khảo)
|
Trong việc nghiên cứu Ngô Tất Tố chúng ta đã
đạt được nhiều thành tích. Đặc biệt trong các công trình nghiên cứu tản văn của ông, có một số
thuộc loại xuất sắc đã nghiên cứu công phu về các mặt tư tưởng, ngôn ngữ, nghệ
thuật của tác giả, và đã góp phần tích cực vào lý luận phê bình của chúng ta.
Song, riêng mặt phong cách của Ngô Tất Tố trong tản văn, tuy đã có
những bài viết đáng chú ý đề cập tới một vài đặc điểm của phong cách nhà văn, nhà báo, nhưng nhìn
chung chưa có một công trình nghiên cứu về toàn bộ phong cách Ngô Tất Tố trong tản văn của ông. Sở dĩ thế là vì có
nhiều lý do:
Thứ nhất, phong cách học, bộ môn của ngôn ngữ học để
nghiên cứu phong cách còn gặp rất nhiều khó khăn. Các khái niệm làm cơ
sở cho nó, như phong cách, phong cách
thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả v.v... vẫn chưa được xác định
một cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng được cho mình một hệ thống thao tác có hiệu
lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan. Âm vị học, ngữ pháp học
đã xây dựng được những hệ thống thao tác riêng, nhờ đó sự khảo sát về âm vị học
hay ngữ pháp của một ngôn ngữ, nói chung là khách quan, và cho phép ta thấy rõ
âm vị và ngữ pháp tiếng Anh khác hẳn âm vị và ngữ pháp tiếng Pháp. Trái lại, nếu
ta đọc một công trình phong cách học tiếng Nga, rồi đọc một công trình phong
cách học tiếng Anh chẳng hạn, thì ta sẽ bắt gặp ở hai công trình nhiều điểm giống nhau không thể giải thích
được, trừ khi ta giả thiết rằng các công trình này còn chịu ảnh hưởng truyền
thống từ chương học từ thời Hy Lạp. Lại có những sự khác nhau cũng không thể giải
thích được nếu không cho đó là xuất phát từ nội bộ cấu trúc của từng ngôn ngữ.
Phong cách học đang thiếu một lý luận nhất quán để có thể khẳng định nó như là
một khoa học thực sự.
Thứ hai, nếu ta đọc các công
trình phong cách học theo quan điểm
hình thức luận, ta sẽ thấy có nhiều điểm đáng chú ý liên quan đến cái gọi là “cấu trúc phong cách” của mỗi ngôn ngữ và mỗi tác giả. Nhưng
các công trình này lại quá thiên về hình thức, cho nên chỉ cấp cho ta cái mã về
hình thức, do đó không trả lời được câu hỏi chủ chốt của phong cách học. Một tác phẩm báo chí được coi là hay, không phải vì hình thức của nó, mà vì nội dung của nó khớp đúng với
các hình thức được diễn đạt, và ngược lại, hình thức này hay, không phải là vì
tự nó hay, mà vì chỉ có hình thức ấy mới thể hiện được thành công nội dung đã chọn.
Nói khác đi, các công trình không nêu bật được tính thống nhất hữu cơ
giữa hình thức với nội dung, tiền đề của mọi tác phẩm nghệ thuật có giá
trị.
Muốn nghiên cứu phong cách tản văn báo chí Ngô Tất Tố phải làm nhiều việc. Thứ nhất, phải xây dựng lại các khái niệm của môn phong
cách học, một việc làm mà nhiều nhà nghiên cứu vì quá chú ý đến thực tiễn, nên
đã bỏ qua. Thứ hai, phải tìm ra được những đặc điểm tiêu biểu của tác giả Ngô Tất Tố về mặt nội dung không lặp lại ở người khác. Thứ ba, tiếp cận các tác phẩm tản văn báo chí của Ngô Tất Tố một cách hình thức và chứng minh chính hình thức tác giả lựa chọn là thích
hợp nhất để diễn đạt nội dung này. Trong tình trạng phong cách học tiếng Việt
chưa xác lập được cơ sở lý luận cho chính nó, những người làm công trình này sẽ phải đảm nhận cả ba
việc ấy và dĩ nhiên là vất vả.
Trước hết về mặt nội dung: Trong
việc nghiên cứu tản văn báo chí Ngô Tất Tố, người nghiên cứu có trong tay
mình rất nhiều công trình nghiên cứu nội dung này từ
trước đến nay. Các công trình ấy với những đánh giá và nhận định khác nhau, nhưng nhiều khi hết sức sâu sắc và thú vị. Nhưng mặc dầu
đưa ra những kết luận khác nhau, tất cả đều giống nhau ở một điểm: Hầu
như tất cả đều nghiên cứu một số tác phẩm tản văn nhất định
(hoặc là nghiên cứu những tác phẩm báo chí đã có hoặc mới tìm được), rồi căn cứ vào nhận thức của
riêng mình mà khen hoặc chê. Và những lời khẳng định hay phủ nhận đều được
dẫn chứng công phu, xem ra không thể bác bỏ được. Trong tình trạng có những mâu thuẫn như vậy, làm
sao có thể rút ra được những nhận định thực sự khách quan, mọi người đều có thể
chấp nhận? Sau đó, về mặt nghệ thuật, tuy mọi người đều thừa nhận nghệ thuật của tản văn lànghệ thuật
ước lệ, cổ điển, người thì bảo đó là nghệ thuật lãng mạn, người thì khẳng định
đó là nghệ thuật hiện thực phê phán... Đó một cuộc tranh luận không bao giờ dứt.
Để xây dựng một lý luận phong
cách học khách quan, có hy vọng chấm dứt được những cuộc tranh luận khó có được hồi kết, cần phải tiếp cận đối tượng một cách khác.
Nhiều công trình đã nói
đến giá trị của tản văn về nội dung và hình thức, nhưng đều không chứng
minh những nét khu biệt về nội dung và hình
thức mà chỉ chỉ các nhà văn, nhà báo lớp trước 1945 làm được. Một nghệ sĩ chỉ vĩ đại khi anh ta có những đóng
góp đặc biệt mà trong thời đại mình không ai làm được. Không những thế, những
đóng góp của anh ta còn vượt xa ngoài thời đại, đến nỗi thời đại sau có thể
bắt chước được, mà khó có thể vượt qua.
Nói khác đi, ta phải tìm những cống hiến nghệ thuật của riêng nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố mà trước đó không ai
làm được, và sau đó cũng khó có ai làm được. Chỉ những yếu tố ấy mới làm thành phong cách của ông. Những yếu tố khác, cái nào
thuộc phong cách thời đại, thì phải đặt nó vào phong cách thời đại, cái nào
thuộc phong cách thể loại, thì phải đặt nó vào phong cách thể loại. Chỉ có làm
thế ta mới có thể xác lập một cách khách quan cống hiến của một tác giả vào một giai đoạn lịch sử. Một thiên tài, dù là ở lĩnh vực văn học nghệ thuật hay khoa học - kỹ
thuật, đều giống nhau ở điểm quyết định sau đây: anh ta đưa ra một cách giải
thích đối tượng hay hơn trước, không ai đạt được, làm thành cách công thức hoá
của chính anh ta. Đóng góp của Newton là định luật vạn vật hấp dẫn, đóng góp của Copeccic là lý luận quả đất
xoay chung quanh mặt trời. Vậy đóng góp của Ngô Tất
Tố là cái gì? Chẳng lẽ
một Newton
là vĩ đại chỉ vì ông
nói như mọi người, chẳng lẽ Nguyễn Du vĩ đại vì ông sống, yêu, khổ sở rồi chết?
Lịch sử văn học, lịch sử vật lý học, chỉ là lịch sử thực sự, khi nói được
điều đó. Đồng thời, chỉ có nói được điều đó, lịch sử vật lý học mới có sự phát
triển thực sự của nó, nếu không lịch sử vật lý học sẽ là lịch sử cuộc đời các
nhà vật lý học. Cũng vậy, chỉ nói lên được sự cống hiến nghệ thuật riêng của
từng nhà văn, nhà báo thì lịch sử văn học, lịch sử báo
chí mới có sự phát triển
thực sự, chứ không phải là lịch sử của những con người làm văn học, làm báo chí.
Những điều nói trên đây áp dụng
cho lịch sử văn học, báo chí nói chung, không phải chỉ riêng cho lịch sử văn
học nước nào. Lịch sử văn học lâm vào tình trạng này là vì nó chưa xây dựng được những khái niệm, những phạm trù của nó cho thực đúng với đối tượng mà nó
nghiên cứu. Các phạm trù phong
cách nghệ thuật mà nó sử dụng còn vay mượn ở từ chương học - phạm trù nội dung, hình thức
của nó còn vay mượn ở triết học. Nó không xây dựng được cho mình những cơ chế thao tác riêng. Kết quả là,
nó không đuổi kịp cái trào lưu khoa học kỹ thuật đã lôi cuốn mọi ngành hoạt động của con người, vào cuối thế
kỷ này. Đó là chưa nói mỗi nền văn hoá đều có những thiên kiến riêng. Văn học
phương Tây, Trung Quốc là bộ phận của văn hoá dễ khiến có những thiên kiến
riêng rất khác văn hoá, văn học Việt Nam. Làm thế nào có thể lấy bộ máy làm việc
của họ để nghiên cứu văn học, báo chí Việt Nam được?
Ai theo dõi sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật vào cuối thế kỷ này cũng thấy những thành tựu của các khoa
học, như điều khiển học, xã hội học, ngôn ngữ học, lý luận mô hình... ảnh hưởng
đến cách nhìn của con người trong mọi lĩnh vực. Vì vậy, trong công trình này,
chúng tôi thử áp dụng một phương pháp tiếp cận khác. Chúng tôi không xét các tác phẩm tản văn của Ngô Tất Tố một cách độc lập, rồi đưa ra
những nhận xét của mình, mà cố gắng áp dụng nhất quán những thao tác sau đây:
Thứ nhất, xét tần số lặp đi lặp
lại của một hiện tượng. Một hiện tượng phải lặp đi lặp lại đến một tần số nhất
định mói được chú ý đến. Đó là vì phong cách là sự lặp đi lặp lại cùa một chùm
những nét khu biệt; những nét này muốn tạo thành phong cách không được có tần
số quá thấp, bởi vì khi tần số thấp, nó sẽ không để lại trong óc người đọc một
ấn tượng nào cả.
Thứ hai, sau khi đã rút ra một
nét khu biệt, chúng tôi xem xét nét này qua hai trục là trục lịch sử và trục thời đại. Chúng tôi xét
nó qua trục lịch sử, xem nó có phải là mới hay không. Nếu như cái nét này đã có, đã
quen thuộc trong lịch sử, thì chúng tôi gạt đi, cho nó không phải là tiêu biểu
cho phong cách Ngô Tất Tố. Một cây bút khi xây dựng phong cách của mình, có những yếu tố vay mượn và những yếu tố
sáng tạo. Chỉ những yếu tố sáng tạo mới là đáng kể, còn những yếu tố vay mượn không
thuộc phần đóng góp của nhà báo. Khi cái nét được tách ra là mới
đối với lịch sử, chúng tôi khảo sát nó theo trục thứ hai là trục thời đại tác giả.
Đặt nét này trong trục thời đại tác giả, tức là xét quan hệ của nó với thời đại. Nhất định không ai có thể có một cách tiếp cận nghệ thuật mà
thời đại mình không mảy may có được. Điều đó là phi lý. Phong cách một nhà báo, dù có vĩ đại đến đâu, cũng phải phản ánh phong cách thời đại. Qua sự đối lập các tác phẩm tản
văn báo chí của Ngô Tất Tố với thời đại của ông, ta sẽ thấy những cách nhìn chung giữa Ngô Tất Tố và thời đại. Chúng tôi cũng gạt bỏ luôn cả những cái gì chung cho thời đại
với Ngô Tất Tố. Đó là vì cống hiến nghệ thuật ở đây dẫu sao cũng chưa thực sự là
của tác giả. Qua sự đối lập này chúng tôi sẽ rút ra những đóng góp riêng của tác giả mà thời đại không đạt được, mà
làm thành cống hiến của chính tác giả.
Công trình này không các tách tác phẩm ra thành hai phần, là nội dung và hình thức. Theo chúng tôi
quan niệm, trong phong cách có nội dung, nhưng nội dung được xây dựng theo cái
hình thức riêng thích hợp với phong cách này. Nó có hình thức, nhưng hình thức
là để thích hợp với một loại nội dung nhất định, chứ không thích hợp
với một nội dung khác. Nói khác đi, khi nó nói đến nội dung thì nói luôn cả
cách hình thức hóa nội dung, và ngược lại khi nói
đến hình thức thì nó nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện
nội dung đã chọn./.
|
Nguồn:
codontrenmang.info
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét