Khiemnguyen

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Việt Nam văn học sử yếu (6)



Ảnh hưởng của nền văn học mới nước Tàu (Lương Khải Siêu)
và nền Pháp học đối với tư tưởng và ngôn ngữ người Nam

Trong hai năm học trước, ta đã xét về văn học nước Nam t thế kỷ XIX trở về trước. Ta đã nhận ra rằng nền văn học ấy chịu ảnh hưởng của nền văn học cổ nước Tàu, thứ nhất của Nho học. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, vì các việc xảy ra ở mấy nước láng giềng và ở ngay nước ta, tư tưởng các sĩ phu nước ta có thay đổi. Sự thay đổi ấy do hai nguyên nhân chính: một là sự tiêp xúc với nền văn mi của Tàu; hai là sự mở mang của nền Pháp học nước ta.
1. Nền văn học mới của Tàu
Cuộc cách mệnh văn học của Tàu
phu nước Tàu xưa kia phần nhiều cũng mài miệt trong vòng khoa cử và ham chuộng từ chương, đến cuối thế kỷ thứ XIX, vì sự tiếp xúc với người Âu Tây và thứ nhất là sự thất bại của quốc gia (Nha phiến chiến tranh 1840 - 42) (231), Trung Nhật chiến tranh năm (1894 - 95), mới tỉnh ngộ rằng lối khoa cử và nền văn học cũ không hợp thời nữa. Bấy giờ các bậc thông minh tân tiến mới sang du học châu Âu để hấp thụ lấy học thuật tư tưởng mới; rồi đến khi về nưc, dịch các sách Âu Tây về triết học (Montesquieu, Rousseau, Huxley, Stuart Mill, Spencer, Smith, v.v...), về văn học (Hugo, Dumas, Balzac, Stevenson, Dickens, Scott, Cervantes, Tolstoi, v.v...), soạn sách vở và viết báo chí để truyền bá những tư tưởng mới (chính thể lập hiến, dân chủ, đại nghị; ch nghĩa tự do bình đẳng, v.v...). Đồng thời, các nhà ấy cho lối cổ văn là khó hiểu mà học mất lâu công bèn xướng lên việc cải cách văn tự, viết theo lối văn giản dị, sáng sủa, tức là lối văn “bạch thoại” của Tàu ngày nay.
Các văn sĩ nổi tiếng
Trong các nhà tân học Tàu nói trên, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng đến sĩ phu người Nam hơn cả là Khang Hữu Vy và thứ nhất là Lương Khải Siêu.
Khang Hữu Vy (1858 - 1927) là người chủ trương cuộc biến chính năm 1898 (Thanh Đức Tôn, Quang Tự thứ 24) Tàu; ông có soạn ra những sách Đại đồng thư (sách bàn về chủ nghĩa đại đồng) và Âu châu thập nhất quốc du ký (chép việc đi chơi nước châu Âu).
Lương Khải Siêu (1873 - 1929),            tự Trác Như, hiệu Nhiệm Công, người tỉnh Quảng Đông, tư chất rất thông minh, năm 17 tuổi đỗ thi hương; năm 18 tuổi đi thi hội hỏng bèn về Qung Đông xin làm (232) môn đệ Khang Hữu Vy, b cựu học theo tân học. Sau trận Trung Nhật chiến tranh (1894) theo thầy lên Bắc Kinh dâng thư xin đổi hiến pháp không có hiệu quả, ông đến Thượng Hải mở Thời vụ báo. Năm 1898, ông cùng với thầy hoạt động về việc biến chính vì bọn thủ cựu phá tan, phải trn sang Nhật sang Mỹ, rồi đi du lịch hoàn cầu. Sau ông trở về Nhật làm Tân dân tùng báo bỏ chủ nghĩa bảo hoàng (là chủ nghĩa của thầy) theo chủ nghĩa cộng hòa. Sau khi Dân Quốc thành lập, ông trở về nước. Năm 1929, mất ở Bắc Kinh.
Ông học rộng tài cao, trứ thuật rất nhiều. Các tác phẩm chính của ông là Ẩm băng thất văn tập (m băng thất là biệt hiệu của ông), m băng thất tùng trứ (trong bộ này ông nghiên cứu và bình luận nhiều vấn đề triết học, văn học và chánh trị). Trung Quốc học thuật tư tưởng biến thiên sử (sử chép việc biến thiên về học thuật tư tưởng của nước Tàu), Thanh đại học thuật khái luận (Bàn chung về học thuật đời nhà Thanh), ông là một văn sĩ có thiên tài, lời hoạt bát, giọng nồng nàn khiến cho người đọc rất dễ cảm động.
nh hưởng đối với sĩ phu nước Nam.
Đương khi các sĩ phu nước ta say đắm trong trường khoa hoạn, không biết đến tình hình thế giới và trào lưu tư tưởng mới, thì xảy ra việc nước Pháp đánh lấy Nam Kỳ (1858 - 62) và đặt cuộc bảo hộ Trung Bắc Kỳ (1884), kế đó lại đến cuộc Nhật Nga chiến tranh (1904 - 05): bấy giờ các nhà ấy mới như người ngủ say tỉnh dậy, tự hỏi cái văn (233) hóa Âu Tây trước kia mình vẫn khinh b không hề ngó tới tất có sự mầu nhiệm gì khiến cho các người Âu Mỹ trở nên giàu mạnh và nước Nhật, tuy đất hẹp người ít, chỉ nhờ sự theo khoa học của Tây phương mà đánh nổi nước Tàu và nước Nga. Bấy gi các thức giả mới muốn hiểu biết cái học thuật tư tưởng của Âu Tây, bèn kẻ thì ra ngoài du học (sang Tàu, sang Nhật), kẻ thì mua các sách tân thư của Tàu đ học. Thành ra các học thuyết mới của Âu Tây lại do văn Tàu truyền sang một cách gián tiếp. Rồi các nhà ấy cũng hăng hái muốn cải cách canh tân: mở trường học, lập công ti buôn bán; lại có người vận động về đường chánh trị. Đồng thời nhiều danh từ chữ nho mới về triết học sáp nhập vào tiếng Nam.
2. Nền Pháp học
Sự mở mang nền Pháp học
 Nền văn mới của Tàu tuy đã truyền bá tư tưởng học thuật Âu Mỹ sang ta ít nhiều, nhưng vì là cách truyền gián tiếp, nên cái ảnh hưởng chưa được rõ rệt lắm. Sau khi người Pháp cai trị nước ta, Pháp học một ngày một phát đạt, số người Nam học chữ Pháp càng ngày càng nhiều, trước đó còn bậc tiểu học, trung học, sau lên đến bậc đại học, nhờ đó mà các bậc học thức trong nước được tiếp xúc thẳng với nền văn học của Âu Tây, thứ nhất là của nước Pháp và chịu ảnh hưởng sâu xa của nền văn hóa ấy.
Ảnh hưởng của nền Pháp học. Vì tiếp xúc với nền Pháp học, bọn Tây học nước ta đã hấp thụ các tư tưởng mới.
Về đường luân lýxã hội, thì chủ nghĩa cá nhân (234) (trọng quyền lợi và hạnh phúc của cá nhân) và những quan niệm về công dân (có nghĩa vụ mà cũng có quyền lợi), và nghề nghiệp (biết trọng cả các nghề), về danh dự (cho danh dự không phải chỉ do phẩm tước mà thứ nhất là do tài đức, nhân cách mà có), dần dần được nhiều người theo.
Về đường học thuật, thì xưa kia ta chỉ biết có học thuật của nước Tàu, lấy người Tàu làm mẫu mực mà bắt chước họ; quá ham chuộng việc nước Tàu mà quên cả việc nước mình và không biết đến việc thế giới; lại có tính quá phục tòng cổ nhân thành ra mất cả trí sáng kiến mà không nghĩ ra được điều gì là cái đặc sắc của mình. Nay thì các nhà trí thức biết để ý đến học thuật của các nước trên hoàn cầu, đến việc nước ta và việc thiên hạ; biết giá trị của phương pháp khoa học, của sự tìm tòi, sự phát minh và biết trọng những đặc sắc.
Về văn chương, xưa kia các cụ thường viết văn chữ nho mà có ý khinh miệt và nhãng bỏ quốc văn; thường chuộng từ chương mà không vụ thực sự; thường chú trọng đến các hạng người cao quí mà ít lưu tâm đến kẻ thường dân. Nay các nhà học thức đã biết trọng quốc văn, biết quan sát và mô tả các cảnh vật xác thực, biết để ý đến cuộc sinh hoạt của người bình dân.
Về phương diện ngôn ngữ văn tự, nhờ ảnh hưởng của Pháp văn, nhiều nhà viết quốc văn ta gần đây đã biết trọng sự bình giản sáng sủa, gãy gọn. Có nhiều cú pháp mới phòng theo cú pháp văn Tây mà đặt ra. Đồng thời có nhiều danh từ gốc chữ Pháp đã theo cách phiên âm mà sáp nhập tiếng ta và có nhiều thành ngữ của Pháp đã do các nhà viết văn đem dịch ra tiếng ta. (235)
Kết luận
Thoạt tiên nền văn mới của Tàu, rồi đến nền Pháp học đã làm cho phái học thức nước ta được tiếp xúc với văn minh Âu Tây, vì đy mà tư tưởng, văn chương, ngôn ngữ của người Nam có thay đổi nhiều, gây nên phong trào quốc văn mới ta sẽ xét trong các chương sau.
Các tác phẩm để kê cứu
1. Trần Trọng Kim, Nho giáo, q. III (sách đã kê trước, Xem thiên XI, d) Tân học phái, tr. 527 tđ.
2. Sung Nien Hsu, Anthologie de la ỉittérature chinoise (ouvrage cité) V. Introduction, VI, pp. 68 - 88,
3. Phạm Quỳnh, Revolution intellectuelle et morale des Annamites depuis V'établissement du Protectorat francais, in N. p. , t. XI, Suppl. en francais, pp. 152 - 129; t XII Suppl. en franl ais pp. 1 - 17.
4. Ưng Quả, II y a une renaissance annamite, in N. P. ,t. XXX, Suppl. en francais, pp. 63 - 70. (236)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét