|
Trương Tửu
(Đăng trên báo Loa, số ngày 19/9/1935)
|
Muốn ghi chép hình ảnh ngoại giới, hội họa và văn chương dùng những phương tiện khác nhau. Bằng
những nét, những mầu, những dáng, họa sĩ có thể khôi phục cái linh động của một vật, một cảnh. Một bức tranh kiệt tác cho ta cảm tưởng đứng trước thực trạng của đối tượng bị vẽ. Nhiều khi nó lại
truyền cho ta những cái thú đậm đà, kín đáo vì, thuộc về nghệ thuật nó phải hoàn toàn vì nguyên tố (élémenls constitutijs). Được vậy là vì họa sĩ dùng chất đề ghi chép chất. Tất cả những biến thể của mầu sắc (nuances de couleur) họa sĩ in lên mảnh vải y hệt được bằng thuốc vẽ.
Chái lại, muốn tả cảnh, nhà văn
chỉ dùng chữ, một thứ dấu hiệu nhân tạo, tự nó không
có nghĩa. Nên văn chương chỉ có thể làm ta trông thấy (faire voir) cảnh vật, nhờ sự hiểu và sự cảm (tôi muốn nói: tri giác và tưởng tượng).
Với thuốc vẽ, họa sĩ tô một màu sắc đủ thỏa mãn thị quan, mặt chữ dù có sức gợi khêu (pouooir cvocateur) đến đâu cũng phải cậy tưởng tượng mới làm ta thấy được thứ nó
hình dung. Bởi vậy, nhà văn phải cầu cứu đến nhiều phương hoạch để tả cảnh. Phương hoạch trọng yếu nhất là hình tượng (image) với tất cả những cách chuyển tính chất của cái này cho cái khác (tiếng Pháp gọi là mélaphòre. Thí dụ muốn tả sắc trắng của
mái tóc phải muợn sắc trắng của chất bạc - argent): tóc bạc, da mồi.
Cách chuyển tính ấy biến thành lối so sánh, lối ví (comparaíson): (đen như mực, đỏ như son, đói như cào…).
Như vậy, tức là phải mượn tính chất của một thứ dễ tưởng tượng chuyển sang một thứ khó tưởng tượng. Tài tình của nhà văn
tả cảnh ở chỗ biết thực hành nguyên lý ấy.
Chữ dùng thường chia làm ba loại:
1. Chữ làm cho hiểu (mols
abslrails).
2. Chữ làm cho cảm (mols sensibles).
3. Chữ làm cho xúc động giác quan (mols concrels).
Nhà văn tả cảnh phải kỹ loại thứ nhất, ít dùng loại thứ
hai, khéo dùng loại thứ ba.
Ở loại này, mỗi chữ là một hình tượng, tổng hợp nhiều thuộc tính (Thí dụ nói mắt bồ câu, chữ bồ câu vẽ ngay trong ký ức tả một con chim với cặp mắt gồm những tính chất chong chẻo, sán lạn, tình tứ, hình bầu dục, nét thanh thú).
Nếu biết đem hình tượng này ví với hình tượng khác, thì tả cảnh được quá trị và lỗi lạc vô cùng vì văn chương, nhờ
có tài liệu phong phú hơn hội họa, còn diễn là được cả những cái vô hình.
Luận như vậy, để thiết lập ra nguyên lý của nghệ thuật tả cảnh,
tóm tắt ở một định luật: “Biên chép cảnh vật bằng hình tượng”.
Căn cứ vào luật này, tôi có thể nói: trong các nhà văn tả cảnh hiện đại, ông Lan Khai đáng liệt vào một địa
vị danh dự.
Ông Lan Khai là người chỉ cảm, chỉ
nhìn bằng hình tượng. Thấy một vật, trong trí tưởng ông, tự nhiên - tôi nói tự nhiên – nẩy ra hình ảnh một vật khác, tuơng tự. Đặt bút ra là ông đặt ngay trên giấy vật trong thực tế và hình tượng đột hiện.
Vì thế nên văn ông bóng bẩy, đẹp đẽ. Không mấy khi ông tả mầu sắc bằng một cộc lốc. Ông phải dùng lối ví:
“Mái tóc, màu hạt dẻ...”.
“Đỉnh núi xa màn lơ nhạt…”.
“Suối nước đen như mực loãng...”.
Luôn luôn, trang này qua trang khác, ta gặp những hình hượng như thế, làm trí tưởng ta phải làm việc một cách đột ngột bằng luật liên tưởng.
Nhìn “những vũng nước nhỏ rải rác trên mặt đất” phản chiếu ánh mặt trời, ông Lan Khai liền nghĩ ngay đến “những mảnh gương vụn nát”.
Đọc câu này, ta phải lò mò theo cái lịch trình quan sát và sáng tạo của tác giả. Ta sẽ thấy: một hình tượng ở Lan Khai, là kết quả trực nhiên của một việc làm tinh thần (un travail mental) trong đó, chủ sự có giác quan, ký ức và chí tưởng.
Bởi lẽ đó, văn Lan Khai tổng hợp, đằm thắm và dễ cảm động.
Ông còn có nhiều thuật khác khiến tác phẩm của ông là
một cái nguồn dồi dào về hình tượng cho
nhà tu từ học.
Khi ông diễn cái trừu tượng bằng cái hữu hình:
“Chàng thấy nỗi buồn kẽo cọt trong lòng như một con sâu đục khoét gốc cây...”.
“Mỗi khi một
mình bóng chiếc, cảnh tượng ấy thường hiện ra trong trí nhớ... làm cho tâm hồn chàng vẩn lên như một giòng nước đục...”.
“ Cái yên tĩnh dần dần buông xuống như một lần chăn êm dịu phủ khắp mình chàng...”.
“Tấm lòng chàng chống chải như
quán chợ chiều thu...”.
“Cuộc đời như cái thây lạnh gói kín trong bức khăn liệm
trắng...”.
Khi ông tả cái cụ thể bằng cái vô hình:
“Tự mái tranh,
khói bốc lên, nghi ngút như những ý nghĩ vẩn vơ lần bay về cõi mộng”.
“Cuộc đời ở Hoàng Tsủ Phì luôn luôn giấu kín trong khói sương, giống như một cái huyền bí xa xôi”.
Đó là một chứng cớ cho câu tôi viết: “ông Lan Khai nghĩ bằng hình tượng”. Khi ông cho vật vô tri một sinh hoạt nhân loại: “Đỉnh núi xa, màu lơ nhạt, như cố vươn lên để tiếp lấy cái ơn huệ trước nhất của thái dương...”;
“Hai miếng vá (của cái quần một anh Thổ) căng thẳng trên hai đầu gối há hốc ra cười; nhe lượt răng chỉ trắng phau”.
Thỉnh thoảng dưới ngòi bút Lan Khai, hình tượng nọ tiếp hình tượng kia để thành một điệu dài làm người đọc như bị mê sảng không biết mình ở trong mộng hay trước cảnh
thực. Đại biểu lối văn này, có đoạn tả nàng Tsí Đòa tắm, trong tiểu thuyết Lô Hnồ:
“Dưới bức trần lá xanh, một phiến đá trắng như ngọc, phẳng như giường. Những lá cơm lênh mông buông rủ như một bức màn gấm... Thạch bàn ở ngay bờ suối, giòng nước, từ vách núi bên kia rót xuống, vấp vào những tảng đá mấp mô bắn tóe như một đám mù. Trước khi chảy xuống lòng khe, bao nhiêu nước rồn cả vào một cái vũng lớn, tự mấy nghìn năm, do nước khoét vào đá thành như một cái bồn tắm thiên nhiên. Nàng tiên khỏa thân ngồi trên miệng bồn, cái nhìn bóng mình chắp nối trong vành gương lung lay...”.
…
Đây không phải là bức tranh; cũng không phải là bức trạm. Đây là một bài thơ tết bằng hình tượng. Lấy sự mê man của ta mà đoán, ông Lan Khai, lúc tả cảnh nàng Tsí Đòa tắm, phải say sưa, sảng khoái, phải sốt rét lên - như người Pháp thường nói. Đoạn văn tôi vừa trích đựng hầu hết những đặc sắc của văn ông.
Tôi không quên rằng ông Thế Lữ thỉnh thoảng cũng dùng những hình tượng rất tài tình. Tôi chỉ muốn nói, Thế Lữ, đó là ở những phương hoạch viết văn
(procédéde style) ở Lan Khai, là
một cách cảm giác và quan sát, một trạng thể sinh hoạt
tinh thần (un mode
de viè mentale).
Ngoài lối tả cảnh bóng bảy, văn Lan Khai còn đặc biệt ở cách phô diễn.
a). Ông dùng những chữ hình tượng rất khéo:
“Đất rung động lên như chuyên mình”
“Trên quãng đồng không, Lô Hno như để vương lại một phần hồn”
“Cái yên tĩnh dần dần buông xuống...”
“Không khí chong sạch... gạn hết trần căn...”
“Gió thổi như dán quần áo vào người”
b) Ông có những lối đặt câu rất mới:
“ Dân nô nức đi xem (hồ Lãng Bạc) bạt ngàn cả trên bờ. Ai nấy trố mắt nhìn như nhìn một cái hiện tượng...”.
“... Dưới ánh đèn và ánh trăng, gương mặt Chiêu Thánh công chúa thực là một bài thơ tuyệt
đẹp về tình”.
Văn Lan Khai điêu luyện trông thấy. Có thể nói: “Nó ngửi thấy mùi dầu hỏa” ông đã mạnh bạo ứng dụng cách diễn ý, tả cảnh của Pháp văn vào văn quốc ngữ, cái mà nhiều nhà văn cho là ngô nghê và
kiểu cách.
Theo ý tôi sự muộn
ấy phải được hoan nghênh:
1. Vì như vậy, quốc văn mới đầy đủ.
Chúng ta hiện nay đều nghĩ, cảm, nhìn theo tây học cả. Quốc văn
nhiều khi không thề giúp ta diễn tất cả những ý nghĩ, tả tất cả những cảnh vật vì nó là kết qủa của một hoàn cảnh đơn giản. Bây giờ, ta sống trong một hoàn cảnh (xin hiểu theo nghĩa hết sức đầy đủ của nó). Ta phải dự bị cho quốc văn một sinh hoạt mới,
nghĩa là một thể cách mới. Tôi nói thể cách chứ không nói bản chất. Mỗi thứ tiếng có một bản chất bất diệt ta chỉ có quyền đặt vào nó những sợi tơ mới. Nó là cái
khung vô hình, định phá bỏ nó là tỏ rằng mình không hiểu những luật tự nhiên của ngôn ngữ.
Nên khi thấy người viết: “Xâm chiếm hồn tôi, một mối sầu gay gắt” tôi chịu Thấy người viết “ Nàng, với ai tôi nói chuyện” tôi bất mãn.
Bất mãn thôi, khônq chán ngán, vì tôi tin rằng mội nhà văn
tha hồ muốn viết thế nào thì viết chỉ phí công, tốn giấy mực vô ích. Quốc văn không phải
vì thế mà hư hỏng. Thời dan và lý trí sẽ dần dần tiêu hủy những
câu văn thất cách.
2. Vì sự mượn ấy đã được chứng nhận trong lịch trình tiến hóa của quốc văn.
Từ 1903 đến 1935 văn quốc ngữ, theo tôi thấy đã năm lần đồi
hình dạng. Thoạt tiên, lúc các nho sĩ Phan Sào Nam, Ngô Đức Kế, Nguyễn Bá Học, Huỳnh Thúc Kháng…) viết quốc văn, thì nó nhịp nhàng, uyển chuyển, hoàn loàn theo lối phú. Báo Nam Phong ra đời
đem lại cho quốc văn một cái áo mới. Dưới ngòi
bút Phạm Quỳnh, nó sáng sủa, mềm mại, nhưng nó vẫn dài và nặng. Tuy vậy, nếu ai để ý đọc hẳn thấy tiên sinh diễn ý theo Pháp văn nhiều lắm. Đột ngột, Hoàng Tích Chu xách cặp về nước. Xuất hiện giữa làng báo
một lối văn cộc lốc, mạnh mẽ mẽ,
đinh thép. Cú pháp theo tây học gần hết.
Các cách thức phô ý đều mượn trong Pháp văn. Nhưng vì ông không được sống đến nay để phụng sự nó, lối ấy bị bắt chước lầm lạc thành ngô nghê.
Phản động nó anh em bên Tự lực văn đoàn viết một lối văn sáng sủa, linh động, đặc Annam. Những ông Khải Hưng, Nhất Linh có công lo với quốc văn lắm. Nhưng vì các ông muốn “bình dân” văn chương Việt Nam, nên văn các ông còn đứng trong khuôn khổ cũ. Bởi vậy, nên ta được
đọc trong Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt… những câu dài lằng nhằng nối vào nhau bởi những thì, mà, là… Thứ văn ấy, người thường dân
đọc hiểu ngay. Tự lực văn đoàn ở phương diện này hoàn toàn
đạt mục đích.
Nhưng các ông bên văn phái ấy cũng đã công nhiên dùng lắm cách phô diễn rất tây (tôi không cần phải kể thí dụ). Nếu các ông kể cho bình dân hiểu - ôi bình dân Việt Nam! - thì tôi chắc rằng đọc những câu phỏng theo cú pháp tây họ chẳng tài nào hiểu được.
Không! không phải mượn cách phô diễn của tây mà làm quốc văn mất đặc tính Annam đâu! Tất cả cái gì một người Việt Nam đang có khoa học và nghệ thuật là của dân tộc Việt Nam. Giữ quốc văn còn nguyên chất là một cuồng vọng.
Nghĩ vậy, một phái nhà văn mạnh bạo theo phương pháp mới viết văn. Trong số đó tôi đếm được Nguyễn Vỹ, Trần Thanh Mai, Hoài Thanh, Lan Khai, Văn Tứ và Thế Lữ (ôi mĩa mai!)
Ngó qua sự tiến bộ của quốc văn, ta nhận thấy rõ ràng mỗi ngày nó càng chịu ảnh hưởng xấu xa của pháp văn. Phải, không suy nghĩ mới
chối cãi sự thực ấy.
Đem vào văn chương Việt Nam hai đối tượng mới: Rừng rú và Lịch sử. Bằng lối văn tả cảnh bóng bẩy, bằng cách phô diễn phỏng theo Pháp, ông Lan Khai thật là một nhà tiếu thuyết xứng đáng, một nhà văn có giá trị và hy vọng. Phê bình ông, tôi cố ý muốn trả lại César, cái gì của César./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét