|
Đào Duy Anh
(Việt Nam văn hóa sử cương)
|
(Nguyễn Bùi Khiêm) Trong quá trình
học tập, nghiên cứu về lịch sử báo chí Việt Nam, dường như ít gặp những tài
liệu chính thống về giai đoạn khởi thủy của báo chí đến năm 1945, đây là một
trong những khó khăn đối với người học. Tuy nhiên, có nhiều sử sách của các học
giả rất nổi tiếng đã đề cập đến những nội dung liên quan trực tiếp đến lịch sử
báo chí Việt Nam.
Nội dung phần Văn học trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của cụ Đào
Duy Anh là một minh chứng. Xin up toàn văn phần này để các bạn nghiên cứu.
VĂN HỌC
Ở đời thượng cổ, tổ
tiên ta không có chữ, không thấy có di tích gì truyền lại. Đến đời Bắc thuộc ta bắt
đầu học chữ Hán, nhưng trình độ học tập đương còn thấp kém cho nên bây giờ cũng chưa tác
phẩm gì truyền lại đời sau. Song những câu tục ngữ ca dao là văn chương truyền khẩu lưu hành ở chốn dân gian thì
xuất hiện từ lâu lắm, ta có thể nói rằng ngay từ khi có tiếng nói thì người ta
đã đặt những lời có tiết điệu, có vần luật
để bày tỏ tính tình và ghi nhớ kinh nghiệm. Thứ văn chương truyền khẩu
ấy, mỗi đời dồn chứa thêm lên, đến nay thành một kho tài liệu về văn học rất dồi dào, chỉ hiềm vì trải qua tình thế tam sao thất bản, muốn cứu cho ra trạng
huống ở mỗi đời thì thật là khó.
Đến như văn chương thành văn thì đến thời kỳ độc lập
nnới thấy có lưu tích. Sử chép rằng đời Lê Đại Hành có sứ nhà Tống sang nước ta, vua sai sư Lạc Thuận giả
làm lái đò để tiếp sứ, nhận thấy hai con ngỗng trời trên sông, sứ Tống ứng khẩu đọc
hai câu thơ, rồi sư Thuận cũng ứng khẩu đọc tiếp hai câu thành một bài
thơ tứ tuyệt. Khi sứ về, vua Đại Hành lại sai sư Ngô Chân Lưu soạn một bài từ để tiễn. Sách
Thiền Dật chép rằng: “Câu thơ Lạc Thuận,
sứ Tống khen hay, bài ca Chân Lưu nổi danh một thuở”. Hai bài ấy có lẽ là hai bài văn cổ nhất của ta.
Sang triều Lý, Hán học đã thịnh nhưng về dấu vết văn chương để lại thì chỉ có
bài thơ của Lý Thường Kiệt khuyến khích quân sĩ mà thôi. Qua triều Trần thì nho học mới thực là thịnh. Đời Trần Thái Tôn, ông Lê Văn Hưu làm bộ Đại
Việt sử là bộ sử ký thứ nhất của nước ta. Đến đời Trần Nhân Tôn thì những bài hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo,
bài “Đoạt sáo” của Trần Quang Khải, bài thơ “Hoành sáo” của Phạm Ngũ Lão đều là
kiệt tác văn chương. Bài phú Ngọc tỉnh liên của Mạc Chi cũng được
người ta truyền tụng đến.
Đến đời Trần mạt thì có Chu Văn
An là nhà
Nho học uyên thâm cao
khiết làm sách Tứ thư thuyết ước (thất truyền) chú trọng về phương diện
thực hành của Nho giáo, và bài sớ thất trảm (cũng thất truyền) mà
ông Lê Tung phê bình bằng mấy chữ “nghĩa động kiền khôn”.
Triều Lê mới nổi thì đã có bài Bình Ngô
đại cáo là một áng văn tuyệt diệu mở đầu văn học sử, rồi tiếp đến Quỳnh
uyển cửu ca của Lê Thánh Tôn và Thiên Nam dư hạ tập của Thân Nhân
Trung là hai tác phẩm trọng yếu ở đời Hồng Đức. Về sau, những văn
sĩ trứ danh là Nguyễn Bỉnh Khiêm có bộc Bạch Vân thi tập, Võ Quỳnh có
bộ Lĩnh nam trích quái, Nguyễn Dữ có bộ Truyền
kỳ mạn lục, Bùi Huy Bích có sách Lữ trung tạp ký, Đoàn Thị Điểm có
sách Tục truyền ký, Ngô Sĩ Liên có sách Đại Việt sử ký toàn thư; và nhất là Lê Quí Đôn, một nhà
bác học đa tài, trước thuật có đến hơn ba chục bộ sách về Nho học, Lão học, Phật học, Sử học,
Binh học, cùng là thi văn tạp bút, tựu trung có tiếng nhất là bộ Văn
đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Quần thư khảo biện và Đại Việt
thông sử.
Ở triều Nguyễn thì thi ca có Tùng Thiện Vương,
Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu, Cao
Bá Quát; về tản vãn thì có Phạm
Đinh Hổ làm sách Vủ
trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục (bộ sau hợp tác với Nguyễn án),
Nguyễn Đức Đạt có sách Khảo cổ ức thuyết, về sử chí thì có Lịch triều hiến chương của Phạm Huy Chú, Gia đính
thông của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống trí của Cao Xuân Dục.
Tuy rằng tiền nhân ta ở đời trước chỉ chăm hoc sách chữ Hán, viết văn chữ Hán, và chỉ dùng Việt ngữ để làm văn chương du hý, thế mà xem các tác phẩm bằng Hán tự kể ở trên thì ta chỉ thấy những thư văn tạp kỷ
cùng sử ký biên niên, chứ tuyệt nhiên không có những sách về học thuật tư tưởng và tiểu thuyết luận
thuyết như ở Trung Hoa. Đến như Việt
ngữ thì các nhà Nho thường khinh là “nôm na mách qué” nên chỉ khi nào làm văn
chơi đùa tiêu khiển thì mới dùng đến, cho nên Việt văn không thịnh đạt cũng
không lạ gì.
Việt văn được Nhà nho để ý là bắt
đầu từ Hàn Thuyên đời Trần Nhân Tôn,
dùng chữ Nôm làm văn tế ngạc ngư và đặt ra Hàn luật để làm thơ Nôm; đồng thời một nhà nho khác là
Nguyễn Sĩ Cố cũng dùng chữ Nôm để làm phú; rồi các nhân sĩ trong nước bắt chước làm văn Nôm
càng ngày càng nhiều. Song văn chương Việt ngữ ở đời Trần hiện chỉ truyền lại có mấy bài
thơ về Huyên công chúa và bài thơ “Bán than” của Trần Khánh Dư thôi.
Sang đời Lê
thì tác phẩm
về Việt văn có nhiều hơn, nhưng đại khái đều là thi ca cả. Những
áng văn có tiếng nhất là Lê Thảnh Tôn thi tập, Hồng đức
quốc âm thi tập Bạch vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy tư tưởng ẩn dật nhàn tản, Chinh phụ ngâm của Đoàn
Thị Điểm (dịch Hán văn của Đặng Trần Côn) là một lời than tiêu tao thanh nhã, Cung oán ngâm của Nguyễn
Lê Thiều là một tiếng khóc lâm ly.
Ở triều Nguyễn về vận văn thì có
Nguyễn Khuyến hoạt bác tự nhiên, văn Cao Chu Thần khí khái lỗi lạc, văn Nguyễn Công Trứ trầm hùng mà ngạo nghễ, văn Hồ Xuân Hương thì khinh bạc mà tài tình, văn bà Huyện Thanh Quan đoan trang cảm khái, văn Nguyễn Hoàng Quang thống thiết sầu bi, mỗi người một vẻ, so với đời
trước thì sung thiệm hơn. Ngoài ra, lại thêm mấy lối văn đời trước chưa từng thấy là
văn tế Võ Tánh và Ngô Tòng Chu của Đặng Đức Siêu, văn tế tướng sĩ trận vong của Nguyễn
Văn Thành, cùng văn truyện như Hoa tiên, Thanh tâm tài nhân, Lục Vân Tiên,
Nhị độ mai, Phan Trần v.v... tựu trung thì truyện Thanh Tâm tài nhân
tức Thuý Kiều là áng văn toàn bích không tiền tuyệt hậu trong văn học sử nước ta.
Xét văn học nước ta đời trước
kể những tác phẩm bằng chữ Hán thì hòan toàn là theo thể cách và tư tưởng của Tàu, đến các văn chương bằng Việt ngữ cũng chịu ảnh hưởng của Tàu rất sâu xa. Về văn thể
thì trừ những thể thượng lục hạ
bát, song thất lục bát,
cùng các lối biến
thể lục bát và song thất,
còn các lối chính thức như thơ, phú, kinh nghĩa văn sách, từ khúc, hịch, văn tế đều là những
lối mô phỏng của Tàu. Song ảnh hưởng của văn Tàu sâu xa nhất là ở cách đặt câu phần nhiều theo lối biền
ngẫu, ở sự dùng chữ mượn rất nhiều chữ Hán Việt và điển tích ở sử sách Tàu, ở sự chọn đề thường
mượn những đề mà các văn sĩ thi sĩ Tàu đã từng miêu tả và ngâm vịnh. Về cảm tình trong văn chương thì ta thấy bất ngoại biểu dường những tình
trung hiếu tiết nghĩa thậm chí những bài văn du hý như ca trù mà phần nhiều cũng có vẻ
văn khuyến dụ. Về tư tưởng thì chỉ có tư tưởng Nho Phật Lão, nhất là theo kiểu
Tam giáo đồng nguyên, cho nên trong phần nhiều tác phẩm như Cung oán
ngâm, Thuý Kiều ta thấy hỗn tạp cả tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, và Lão giáo.
*
Bây giờ ta hãy xét qua trạng
thái văn học ở hiện đại.
So với văn học đời trước thì văn học Việt ngữ của ta
ngày nay có hai điều mới là chữ quốc ngữ và tản văn. Người đầu tiên có công khiến văn học ta thành sinh diện mới ấy là Trương Vĩnh Ký, một nhà học giả trứ danh ở Nam Bộ, ngay từ khi Nam Bộ mới thành thuộc địa dã dùng chữ quốc ngữ để chuyển tả những văn nôm hay
(Kim Vân Kiều, Lục Văn Tiên, Nam sử diễn ca, Phan Trần), rồi lại dừng Việt ngữ để phiên
dịch sách Tàu (Tứ thư), sách Tây (Manuel des écoles primaires, petit dictionnaire francais annamite), và trước thuật các sách chuyện đời xưa, phép lịch sự Annam, cờ bạc nha phiến, bằng một thứ văn rất giản dị. Buổi đầu thế kỷ hai mươi, những
nhà nho học duy tân ở Bắc Bộ như Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Nguyễn
Khắc Hiếu, những nhà tân học như Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim dùng quốc ngữ để dịch văn Tàu
(Cổ văn, Sử ký, Liêu trai, Kim cổ kỳ quan, Tình sử do Phan Kế Bính dịch); văn Tây (văn Massillon, Bossuet, Pascal do Phạm Duy Tốn và Phạm Quỳnh dịch;
ngụ ngôn La Fontaine, hài kịch
Molière đo Nguyễn Văn Vĩnh dịch), hoặc trước tác về tiểu thuyết (Nguyễn Bá Học), thi ca luận thuyết
(Nguyễn Khắc Hiếu), và lịch sử, luân lý (Trần Trọng Kim). Nhưng có công bồi đắp và cổ lệ cho Việt ngữ nhất, khiến cho quốc dân sinh lòng tự tín đốì với ngôn ngữ nước nhà, thì chính là ông Phạm Quỳnh chủ trương tạp chí Nam phong và ông Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương tập Âu tây tư tưởng.
Đồng thời một phái cựu học,
hoặc chủ trương bài Pháp (phái Đông Độ), hoặc chủ trương cải cách
chính trị (phái Duy Tân), cải cách giáo dục (phái Đông Kinh nghĩa thục) dùng Việt ngữ để làm những bài thi ca cảnh tỉnh quốc dân. Những bài văn ấy tuy bị nghiêm cấm mà cũng được truyền bá ở trong dân gian rất
rộng. Những văn chương cổ suý và nghị luận về chính trị và xã hội xuất hiện trong các báo và sách từ
năm 1925 về sau, đến nay chiếm một phần rất trọng yếu trong báo giới và văn giới nước ta, là do những bài thi ca cổ động bấy giờ làm tiền
khu vậy.
Về phương diện văn học thì Nam phong tạp chí theo một tôn chỉ
với Đông Dương tạp chí dùng Việt ngữ để truyền đạt học
thuật cổ kim và du nhập tư tưởng đông tây, chứng rằng Việt ngữ không những chỉ
thích dụng về các lối văn chương suông mà cũng có thể dùng để viết văn về sử học, triết học và khoa học nữa. Sau tạp chí Nam
phong (1917), các báo chí Việt ngữ xuất hiện một ngày một nhiều ở khắp ba miền (Trung Bộ đến 1926 mới có báo Tiếng Dân là cơ quan ngôn luận đầu tiên), một phương diện là làm trượng thử tài của các nhà văn sĩ, một phương diện là làm trường học quốc văn của quốc dân, khiến cái địa vị báo chí quan hệ trọng yếu ở trong văn học không có nước nào như nước ta vậy.
Từ năm 1925, nhân cái phong
trào chính trị về xã hội bồng bột, nên Việt ngữ có khuynh hướng cổ động và nghị luận về chính trị và xã hội, mà ít chăm đến phương diện
thuần túy văn chương. Các báo (Thực Nghiệp,
Đông Pháp, Tiếng Dân) và các sách (Nam đồng thư xã, Quan hải tùng thư) bấy giờ đều như thế cả.
Đến khoảng năm 1930, trải qua thời kỳ thất bại của các cuộc vận động chính
trị và xã hội thì văn học lại theo một khuynh hướng mới là bỏ các vấn để chính trị
mà chăm chỉ trích những phong tục đồi bại và chế độ cố hủ, về văn thể thì lối tiểu
thuyết thịnh hành hơn lối nghị luận ở kỳ trước. Cơ quan tiên phong của khuynh hướng
ấy là báo Phong Hóa, do các ông Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Thế Lữ chủ trương, rồi tiếp đến Tiểu thuyết thứ
bảy, Hà Nội báo, Ngày Nay, cùng những thư xã như Tự lực văn
đoàn.
Từ năm 1936, nhân Mặt trận
bình dân nước Pháp lên cầm quyền, những phong trào chính trị và xã hội ở nước ta lại có vẻ phấn khởi, thì văn học cũng theo thời thế mà can dự vào những phong trào chính trị và xã hội
ấy. Trong hai hai năm nay (năm 1938) những báo chí tùng thư tả khuynh, nối tiếp nhau mà xuất hiện. Nhiều tờ báo
trước kia chuyên chú về văn
chương và trào phúng mà bây giờ cũng thêm mục bàn về các vấn đề chính trị xã
hội.
Đại khái con đường diên cách của
văn học hiện dại nước ta là thế. Điều tiến bộ quan trọng của văn học hiện đại
là lần lần lìa xa ảnh hưởng của Hán học mà chịu ảnh hưỏng của Tây học ngày một
thấm thía. Về văn thể, về ngôn ngữ, về cú pháp cùng về tư tưởng, ở phương diện nào ta
cũng thấy có vẻ bắt chước người Tây. Bây giờ ta thử tóm tắt qua cái thành tích
của văn học hiện đại:
Thi ca - Nhà thi sĩ hiện đại nhất có
tiếng nhất là Nguyễn Khắc Hiếu với những tập Khối tình con, Giấc mộng con là những khúc thơ chan chứa cảm
tình lãng mạn; rồi đến Trần Tuấn Khải là nhà thi sĩ cảm khái đã làm rung động tâm hồn người
ta trong thời 1925 là buổi quốc gia chủ nghĩa đương thịnh hành. Ngoài ra, phàm
những nhà viết văn báo đều có tập thi riêng, hoặc đăng rải rác, hoặc xuất bản
thành sách, như thơ Sào Nam, thơ Minh Viên, thơ Đông Hồ, song các nhà thi sĩ
lâm thời ấy không có ảnh hưởng trong văn học bằng họ Nguyễn và họ Trần trên kia.
Hiện nay có lối “thi mới” phản đối hẳn các lối cổ thi, nhất là thơ luật Đường.
Những nhà thi sĩ trẻ tuổi trong phái
ấy, như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, đương gắng tìm những âm điệu mới lạ để biểu diễn những cảm
tình thích hợp với cuộc sinh hoạt ngày nay.
Tiểu thuyết - Buổi đầu ta
chỉ có những tiểu thuyết lịch sử và kiếm hiệp của Tàu dịch ra Việt ngữ, như Tam
quốc chí, Tây du, Phong Thần, Chinh đông, Chinh tây, Thuyết
Đường, Thuyết Tống v.v... Rồi đến những tiểu thuyết trinh thám bắt chước của Tây, như Lửa
lòng, Châu về Hiệp phố. Đến năm 1925 thì có quyển Tố tâm của Hoàng Ngọc
Phách xuất hiện mở đầu cho lối tiểu thuyết lãng mạn, hoặc phiên dịch (Ngọc lê
hồn), Thuyền tình bể ái, Giọt lệ phòng văn), hoặc trước tác (Giọt lệ
sông Hương của Tam Lang). Đồng thời có ba bộ tiểu thuyết tư tưởng
là Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, Mộng trung du của cảnh Chi,
và Cô lâu mộng của Ngạc am Võ Liêm Sơn[1]. Từ năm 1931 về sau là thời kỳ tiểu thuyết xã hội
và tiểu thuyết bình dân có khuynh hưóng tả thực như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Tối tăm của Nhất Linh, Gánh hàng hoa,
Đời mưa gió, Gia đình của Khái Hưng. Những tiểu thuyết hoàn toàn
tả thực là những tập Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Tôi kéo xe
của Tam Lang và những tập tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Luận thuyết - Văn luận thuyết của ta thường rải rác trên các
báo chí. Trong Đông dương tạp chí đã thấy có những bài nghị luận ngắn của Nguyễn Khắc Hiếu. Đến tạp chí Nam phong và tạp chí Hữu thanh rồi đến các báo chí từ năm 1925
về sau thì văn luận thuyết xuất hiện một ngày một nhiều. Song phần nhiều là những bài luận ngắn, chứ những sách nghị
luận và nghiên cứu về triết học, luân lý, chính trị xã hội rất ít. Ta thấy có sách Nho
giáo của Trần Trọng Kim, Nhân đạo quyền hành của Há Phi Thống, Biện chứng
học phổ thông của Phan Văn Hùm, cùng các sách nhỏ của Nam Phong tùng thư,
Quan hải tùng thư, và các tùng thư lặt vặt chuyên giới thiệu những tư tưởng học thuật của Tây
phương cho quốc dân.
Sử học - Tác phẩm về
sử học thì nghèo lắm. Ngoài bộ sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
và ít sách giáo khoa các lớp sơ học thì cơ hồ không có sách sử học viết
bằng quốc văn. Về truyện ký thì có Nam hải dị
nhân của Phan Kế Bính, Việt nam dã thặng của Giao tiểu Lâm Mậu, tiểu
thuyết lịch sử thì nhiều hơn, tác giả có tiếng nhất là Nguyễn Tử Siêu
viết những quyển Hùng Vương, Vua Bố Cái, Đinh Bộ Lĩnh, Tiếng sấm đêm đông…
Kịch bản - Từ khi ông Nguyễn Văn Vĩnh dịch hài kịch của Molière và cho
diễn kịch Người bệnh tướng (1921), thì lối kịch bằng chữ Việt ngữ bắt
đầu có ở nước ta. Sau đó Thái Phỉ viết kịch Học làm sang, Vũ Đình Long viết
kịch Chén thuốc độc và Toà án lương tâm, Vi Huyền Đắc viết những kịch Hai
tối tân hôn, Cô đốc Minh, Uyên ương Mạc tin (dịch), Khái Hưng viết kịch Tục lụy, Đoàn Phú Tứ viết
tập Những bức thơ tình và kịch Ghen, ở Hà Nội có những hội La
scène tonkinoise và hội Uẩn hoa thường đặt giải để khuyến lệ những
nhà soạn kịch. Nhưng thực ra thì về lối văn ấy đương còn rất ít tác phẩm có
chân giá trị.
Về lối tuồng cũ thì ở Bắc Bộ có ông Nguyễn
Thúc Khiêm người soạn vở hát cho các tuồng hát chèo ở Hà Nội lấy những tích
ở trong tục truyền và lịch sử nước nhà để đặt tuồng, như bản Chúa
Nguyễn phò hoàng Lê, khác với các nhà soạn tuồng xưa chỉ rành mượn
tích trong lịch sử và tiểu thuyết của Trung Quốc. Ở Nam Bộ hiện có lối tuồng cải lương có
nhiều bản tuồng xuất bản, nhưng không có bản nào có giá trị về văn học.
Phê bình - Lối văn phê bình là lối mới nhất của văn học ta, mà
cũng là lối nghèo hơn cả. Mấy năm gần đây (đến năm 1938) trong các báo chí thường có những bài phê bình văn học, nhưng
chưa thấy có nhà phê bình chân tài nào xuất hiện. Những tác phẩm phê bình có ít
nhiều giá trị đã xuất bản là Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn, Nguyễn Công Trứ của Lê Thước, Trên dòng sông Vị
của Trần Thanh mại.
Sự thống nhất Việt ngữ - Vì tiếng nước ta ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam
Bộ thường nói theo giọng khác nhau, và thỉnh thoảng dùng tiếng khác nhau, cho nên
người xứ này thường không hiểu văn của người xứ khác. Tạp chí Nam phong khởi
xướng vấn đề thống nhất Việt ngữ. Gần đây (đến năm 1938) tạp chí Tin văn lại đề xướng triệu tập một đại hội gồm các nhà văn
ba xứ để bàn bạc về vấn đề ấy, nhưng hội nghị chưa thành thì tạp chí ấy đã đình bản. Giúp cho vấn
đề thống nhất Việt ngữ như Việt Nam tự điển của Khai trí tiến đức, Hán
Việt từ điển và Pháp Việt từ điển của Đào Duy Anh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét