|
Nguyễn Đình Chú
|
Đào Trinh Nhất (1900 - 1951) |
Đào Trinh Nhất là nhân vật đã được Vũ Ngọc Phan trong
Nhà văn hiện đại quyển Ba ở mục Truyện ký và lịch sử ký sự mệnh danh là “một
tay kỳ cựu trong làng văn làng báo Nam kỳ và Bắc kỳ”. Đặc biệt, ngày ông qua
đời (23-02-1951), báo chí trong Nam ngoài Bắc đã tôn vinh, dành cho ông không
ít lời tốt đẹp: “Một lão thành trong làng báo”, “Một anh tài”, “Một kiện
tướng trong văn giới, báo giới”, “Một ký giả lão thành”, “Một nhà báo kiêm sử
gia có tiếng”, “Học vấn uyên thâm và thiên tài về nghề báo”, “Một danh tướng
trong làng báo Việt Nam”... điếu văn của chủ nhiệm báo Cải tạo, nơi ông là
chủ bút thì viết: “Nhớ anh xưa: khoa bảng nhà dòng, văn chương nếp cũ/ Học
nhiều biết nhiều, Tây có Nho có/ đường trường dong vó ngựa, Nam tiến bao phen.
Bể rộng vượt cánh hồng, Tây du mấy độ/ Cành câu cơm áo, đường công danh dơ gót
mặt đua chen/Ngòi bút sắc đanh, trường ngôn luận thích đóng vai tự chủ”.
Vậy mà thời gian ít nhiều đã lãng quên ông.
Ngay người viết bài này, gần nửa thế kỷ trước đã phục
ông khi đọc Nước Nhật Bản 30 năm duy tân và Đông Kinh nghĩa thục nhưng
rồi cũng chỉ ngừng ở đấy. May mắn gần đây có ông Đào Duy Mẫn, một người nhiệt
tâm với thân tộc, sau khi thành công với tuyển tập Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ
mà tôi cũng có tham gia trong việc giới thiệu bài Văn sách thi Đình của cụ
Hoàng Giáp cách đây vài năm, nay lại làm tiếp Tuyển tập tác phẩm Đào Trinh
Nhất và cũng mời tôi tham gia. Quả thật lần này, nhờ sự hỗ trợ tư liệu của
ông Đào Duy Mẫn mà tôi được tiếp cận với tác giả Đào Trinh Nhất tương đối đầy
đủ hơn trước nhiều thì lòng cảm phục đã tăng lên gấp bội lần.
Tôi thấy đây là một ngòi bút có tài, có tầm, có tư
tưởng không dễ có nhiều ở đương thời, cần được làm sống dậy cho xứng với tác
giả đã đành mà còn cần cho đông đảo độc giả, những ai đang tha thiết quan tâm
đến việc kho báu văn hoá tinh thần của dân tộc giữa thời buổi hội nhập gấp gáp,
sôi động chưa từng có, được nhiều mà mất cũng không ít.
TỪ MỘT NHÀ
BÁO SÁNG DANH...
Đào Trinh Nhất xuất thân với nghề làm báo. Ông từng là
chủ bút hoặc bỉnh bút của nhiều tờ báo khắp Nam Bắc trong khoảng 30 năm trời. Hữu
Thanh tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Trung Hoà nhật báo, Đông Pháp (phụ
trương bằng Việt ngữ của tờ France Indochine), Phụ nữ tân văn, Thần trung,
Công luận, Đuốc nhà Nam, Mai, Trung Bắc tân văn, Trung Bắc chủ nhật, Sài Gòn
mới, Ánh sáng, Tri tân, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Việt thanh, Cải tạo.
Thời gian du học ở Pháp (1926-1928), ông đã viết trên Việt Nam hồn.
Không biết trong làng báo nước ta xưa nay đã có bao
nhiêu người có mặt trên nhiều báo chí như Đào Trinh Nhất mà phần lớn lại là báo
có thanh thế, nhiều độc giả của đương thời. So với nhiều người làm báo cùng
thời, Đào Trinh Nhất có mấy điều lợi thế hẳn hoi.
- Một, ông là con của Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, từng
là yếu nhân của trường Đông Kinh nghĩa thục. Cái tên trường Đông Kinh nghĩa
thục là do cụ đề xuất và được chấp nhận. Cụ lại là người làm báo đầu tiên của
miền Bắc: Đốc biện (tức chủ bút) Đại Nam đồng văn nhật báo, chủ
bút Đại Việt tân báo là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội một nửa bằng chữ Hán,
một nửa bằng chữ quốc ngữ (năm 1905). Năm 1907, đại Nam đồng văn nhật báo
chuyển thành đăng cổ tùng báo có quan hệ gần gũi với phong trào Đông
Kinh nghĩa thục, trong đó phần chữ Hán vẫn do cụ làm chủ bút. Trường Đông Kinh
nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng (3/1907-12/1907) thì bị giải tán. Năm 1908,
sau vụ Hà thành đầu độc binh lính Pháp, các cụ tham gia Đông Kinh nghĩa thục bị
khủng bố. Cụ Đào Nguyên Phổ bị truy lùng ráo riết. Trong cơn nguy nam đó, để
tránh phiền toái cho người thân và những người từng cưu mang che chở cho mình,
cụ đã quyên sinh. Cuộc sống cao cả của người Cha như vậy chắc hẳn đã ảnh hưởng
rất lớn đến người con, mặc dù lúc cha qua đời thì con mới lên 8 tuổi.
- Đào Trinh Nhất chịu ảnh hưởng cha trước hết là về
nhân cách một con người đã sống chết với chính nghĩa, với lý tưởng ích quốc lợi
dân, với nhiệt tình duy tân đất nước. Và dĩ nhiên còn là ảnh hưởng về sở thích,
về khả năng làm báo trong đó có ký sự, có sử học. Một đời cầm bút của Đào Trinh
Nhất đã để lại rất rõ những ảnh hưởng sâu đậm đó. Đây là hiện tượng cha truyền
con nối, cha thế nào, con thế ấy, khá đẹp. Đào Trinh Nhất là người con có hiếu.
Có thể chưa làm được một việc lớn như cha, nhưng ít ra cũng không làm việc gì
đi chệch hướng của cha.
- Hai, Đào Trinh Nhất cũng có điều này khác với nhiều
người làm báo đương thời. Ấy là chỗ, có những nhà báo nổi danh, ngang hoặc hơn
cả Đào Trinh Nhất như Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất
Tố...nhưng đến với công việc viết báo, chủ yếu vẫn chỉ bằng văn hoá Hán học, dĩ
nhiên ít nhiều đã được hiện đại hoá. Ngược lại không ít người làm báo khác cũng
nổi tiếng như Hoàng Tích Chu hay như các cây bút của Phong hoá, Ngày nay
thì hầu hết lại chỉ có Tây học. Trong khi ở Đào Trinh Nhất là vừa Hán học, vừa
Tây học. Về Hán học, với ông, ngày học trường Đông Kinh nghĩa thục đã có được
một ít. Sau đó, học thêm và đã dự kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915 dù không đỗ.
Về Tây học, ông là học sinh trường Quốc tử giám ở Huế mà chương trình học vừa
có Hán học vừa có Tây học. Sau đó từ năm 1926 đến 1928, ông lại cùng Hoàng Tích
Chu, Đỗ Văn Du học Pháp, chuyên ngành báo chí. Đọc vào báo phẩm, văn phẩm của
Đào Trinh Nhất, ta thấy rõ các thế mạnh, chỗ hơn nhiều người khác của ông chính
là ở vốn tri thức vừa có Hán, vừa có Tây, vừa có cổ, vừa có kim. Và chính đó đã
lộ tư cách học giả của ông ngay trên mặt báo chí.
- Ba, cũng còn một nét khác giữa công việc làm báo của
ông so với nhiều người làm báo khác đương thời là ông ít viết theo từng bài lẻ,
mà viết theo chủ điểm lớn, viết theo hệ thống, theo chuyên đề...để rồi xâu
chuỗi lại là thành một công trình chuyên khảo. Không ít công trình chuyên khảo
của ông được in về sau là kết quả của một trạng thái làm báo mang phong cách riêng
đó.
...ĐẾN MỘT
HỌC GIẢ KHẢ KÍNH
Đào Trinh Nhất đã để lại cho đất nước những tác phẩm
sau đây:
Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ (1924),
Cái án Cao Đài(1929), Đông Chu Liệt Quốc (dịch), Thần tiên kinh (dịch), Nước
Nhật Bản 30 năm duy tân (1936), Việt Nam Tây thuộc sử (1937), Phan Đình
Phùng-Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886-1895) ở Nghệ Tĩnh (1937), Đông Kinh
Nghĩa Thục (1937), Đời cách mệnh Phan Bội Châu (dịch Ngục trung thư), Cô Tư
Hồng (1942), Vương An Thạch (1943), Vương Dương Minh (1943), Chu Tần tinh hoa
(1944), Lê Văn Khôi, Bùi Thị Xuân, Kẻ bán trời, Mộc Lan tòng quân, Con trời ngã
xuống đất đen (1944), Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917
(1946), Liêu trai chí dị (dịch - 1951)[1].Qua danh mục trên đây, thấy rõ Đào Trinh Nhất đã để
lại một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đa dạng với nhiều thể loại (khảo
cứu, ký sự, lịch sử, tiểu thuyết, dịch thuật) thuộc phạm vi đất nước là chính
nhưng cũng có ngoài nước thuộc Đông là chính nhưng cũng có Tây. Trong đó nổi
lên ba luồng tư tưởng lớn có ý nghĩa đối với đất nước, đối với thời đại:
- Một, thuộc về quốc kế dân sinh.
- Hai, thuộc về khát vọng duy tân đất nước.
- Ba, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và những gương
sáng anh hùng cứu nước.
Ngoài ba chủ điểm đích đáng đó còn là những “giai
thoại lịch sử” là những nhân vật lịch sử này khác, là cuộc đời của một me Tây,
là cuộc sống của những “con trời ngã xuống đất đen”...
Về vấn đề quốc kế dân sinh, công trình đáng giá nhất
là cuốn Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ. Chúng ta đều biết
vấn đề khách trú (chính là vấn đề Hoa kiều) trên đất nước ta, dù hôm nay thì
chính sách của nhà nước ta đã rõ, nghĩa là coi Hoa kiều là một thành phần trong
đại gia đình Việt Nam. Nhưng trong lịch sử, vấn đề đó không đơn giản chút nào.
Trước thực tế làm ăn khôn ngoan, giỏi giang của người Hoa, ở nước ta không phải
không có người đã lo sợ đến sự lấn át của họ đối với người Việt. Một khuynh
hướng bài Hoa không phải không ít nhiều đã có, được báo chí đương thời phản
ánh.
Đào Trinh Nhất vốn tâm huyết với lịch sử dân tộc, cũng
đã đề cập tới vấn đề này qua công trình này. Điều đáng nói ngay là cách đề cập
của ông công phu hơn, nghiêm túc hơn và cũng là đúng đắn hơn nhiều so với người
đương thời.
Trước hết là bằng một sự khảo sát cụ thể, tỉ mỉ, trực
tiếp ở đây là thuộc địa phận Nam Kỳ. Từ đó cho người đọc thấy: cả nước có 35
vạn người Hoa thì Nam Kỳ là 20 vạn và quả thật, họ đã khôn ngoan, giỏi làm ăn
hơn, do đó đã lấn át người Việt khá rõ. Và từ sự thật không hay đó cho đát
nước, ông không đặt vấn đề bài Hoa theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi,
bất lợi mà theo tinh thần dân tộc chân chính, tỉnh táo là chủ trương di dân hai
miền Trung, Bắc vào Nam mà theo ông có hai ý nghĩa lớn:
“Một là tư bản và nhân công hợp với nhau. Tư bản và
nhân công là hai tài liệu để lập nên một nước phú cường. Tất phải tương tri
tương trợ lẫn nhau, rời nhau ra thì đều là vô dụng, lại có hại nữa. Thế giới
ngày nay xướng lên cái chủ nghĩa tư bản và cái chủ nghĩa lao động có ý phản đối
với nhau, thường khi bọn thợ đình công mà công nghệ phải chịu ảnh hưởng lớn,
thường khi ông chủ đóng cửa xưởng mà bọn thợ đến nỗi mất việc làm, chính cớ
rành rành là nước Nga gây nên cái chính sách lao nông mà trong nước tan tành ra
đó...Nước ta, Nam Kỳ sẵn của mà việc làm thiếu người. Trung Nam Bắc sẵn người
mà làm việc thiếu vốn, bấy lâu nay lìa rẽ với nhau, cho nên chưa thấy kinh
doanh được việc làm gì to tát cả. Vậy nên di dân vào Nam Kỳ, tức là cách kết
hợp nhân công với tư bản vậy. Vả chăng, ta cũng nên biết rằng, muốn đạt được
bao nhiêu cái kỳ vọng lớn lao của ta sau này thì phải lấy Nam Kỳ làm trường
hành động mới được.
Hai là liên lạc được mấy xứ. Nói đến tiếng liên lạc
cũng là việc chẳng đã vì nước mình suốt từ Bắc đến Nam sinh cùng một nòi, nói
cùng một tiếng, theo cùng một văn hoá, giữ cùng một tính tình, li gián từ đâu
mà ngày nay phải nói đến chuyện liên lạc? Duy gần đây, vì sự ngẫu nhiên của
lịch sử mà mỗi xứ phục theo một chính thể riêng, cho nên sự trao đổi tình ý với
nhau không khỏi có chỗ ngăn trở đến nỗi tưởng lầm rằng: không phải cùng nhau
một lịch sử chung, một nguồn gốc chung, một tiếng nói chung, một lễ nghĩa
chung”.
Những lời lẽ trên đây cho thấy tác giả đã để lộ những
tư tưởng rất lớn khi đặt vấn đề di dân Trung Bắc vào Nam Kỳ: di dân vào đay là
để tạo ra sức mạnh cho Nam Kỳ mà cũng là cho cả nước để cạnh tranh trước thế
lực khách trú. Là để củng cố, xây dựng lại sự thống nhất đất nước khi đã bị hao
hụt do chính sách chia để trị của thực dân, coi ba kỳ như ba xứ sở riêng biệt.
Đặc biệt, trong việc di dân Trung Bắc vào Nam Kỳ để xây dựng và phát triển, tác
giả đã chạm vào một vấn đề rất lớn của thời đại, của thế giới là việc xử lý
quan hệ giữa hai giai cấp tư bản và công nông: đối kháng hay cộng sinh mà theo
tác giả phải là cộng sinh.
Rõ ràng là thời gian đã chứng minh hùng hồn cho quan
điểm của tác giả. Những tài liệu gần đây được phát hiện của Mác-Engghen ở giai
đoạn cuối, đặc biệt là của Engghen cho thấy quan điểm của Đào Trinh Nhất vào
năm 1924 là một sự trùng khớp và ở Việt Nam là sự đi trước thời đại. Cũng cần
nói thêm: Đào Trinh Nhất không sa vào chính sách bài Hoa bởi chính ông trong
tác phẩm còn chủ trương học tập những kinh nghiệm làm giàu của họ. Với ông là
theo quy luật cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua. Do đó, phải biết phát
huy tối ưu vai trò của nội lực để thành kẻ mạnh trong khi buộc phải cạnh tranh,
không thể khác. Ý nghĩa triết học chính là ở đó.
Thuộc luồng tư tưởng duy tân tự cường, với Đào Trinh
Nhất, có các tác phẩm Nước Nhật Bản 30 năm duy tân, Vương An Thạch, Vương
Dương Minh... Chúng ta đều biết: cuộc duy tân Minh Trị của Nhật Bản từ năm
1868 là một hiện tượng thần kỳ trong lịch sử không chỉ là ở châu Á mà còn là
trên thế giới. Từ một nước chỉ toàn đảo là đảo, nằm chơi vơi giữa biển Đông,
tài nguyên cũng chẳng có là bao, nhưng qua cuộc duy tân, với khẩu hiệu tinh
thần Nhật Bản, kỹ thuật phương Tây mà chỉ trong vòng mấy chục năm, đã trở thành
một cường quốc rồi là cường quốc thứ hai của thế giới, cùng với Thái Lan là hai
nước vẫn giữ vững độc lập dân tộc trong khi hầu hết châu Á đã bị các đế quốc phương
Tây chiếm đóng. Ngay đến cái nước Trung Hoa khổng lồ, từng làm mưa làm gió
trong khu vực trước đó thì rồi cũng như một con voi già bị các chú sói từ trời
Tây đến, con gặm tai, con gặm má, con gặm đùi, nhục hết nói...Còn Nhật Bản
không chỉ giữ trọn độc lập mà còn chiến thắng cả một cường quốc trong chiến
tranh Nhật-Nga (1905). Và ngày nay thì đã có thể tuyên bố với thế giới: Tinh
thần Nhật Bản, kỹ thuật Nhật Bản. Tất nhiên, bên cạnh sự nghiệp thần kỳ đó,
Nhật Bản đã sa vào chủ nghĩa phát xít, một thời gây tội ác lớn trong khu vực,
với Việt Nam ta./.
Nguồn:http://chungta.com/nhanvat-vanhoa/nhan-vat-van-hoa/dao_trinh_nhat_nha_bao_sang_danh_hoc_gia_kha_kinh/default.aspx
[1] Dựa theo Nguyễn Đắc Lộc: “Thân thế và sự nghiệp văn
chương Đào Trinh Nhất” . Văn bản do ông Đào Duy Mẫn cung cấp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét