Kỷ niệm lần
thứ 43 ngày khai sinh của Truyền hình Việt Nam
Theo Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam
(1925 – 2010)
|
Trước nguy cơ thất bại hoàn
toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuẩn bị tiến hành chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” từ giữa năm 1965. Bên cạnh việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào
miền Nam
và tăng cường xây dựng lực lượng, ngụy quyền Sài Gòn, chúng tăng cường bộ máy
tuyên truyền nhằm mục đích huy động tổng lực để giành lại chiến trường đã mất
trong “Chiến tranh đặc biệt” trước đó. Bước vào năm 1966, chúng xây dựng hai
đài truyền hình ở Sài Gòn, một đài do Mỹ trực tiếp quản lý, một đài cho chính
quyền tay sai Sài Gòn làm công cụ tuyên truyền. Ngoài ra, để mở rộng phạm vi
tuyên truyền bằng loại hình báo chí điện tử lợi hại này, chúng còn xây dựng các
đài chuyển tiếp chương trình của đài Sài Gòn ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn,
Huế. Như vậy, ở miền Nam,
năm 1966 có thêm một loại hình báo chí hoạt động, đó là truyền hình.
Ở miền Bắc, báo chí cách
mạng đã có những bước phát triển đáng kể, tuy nhiên do điều kiện kinh tế khó
khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh phá hoại
của Mỹ tiến hành cho nên đến những năm cuối của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, miền
Bắc nước vẫn chưa có Đài truyền hình. Sự cần thiết phải có một Đài truyền hình
là một mong muốn của Đảng, Chính phủ và của những người làm công tác thông tin tuyên
truyền, của những người quản lý báo chí hồi đó. Họ đã âm thầm chuẩn bị để khi
có điều kiện, thời cơ có thể bắt tay vào việc xây dựng một đài truyền hình.
Người đặt nền móng và chuẩn bị cho sự ra đời báo truyền hình là đồng chí Trần
Lâm, Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong hồi ký của mình, ông
Trần Lâm bộc bạch suy nghĩ về những bước chuẩn bị đầu tiên như sau:
“Lúc ấy, tôi đã rất muốn
làm thử truyền hình ở miền Bắc nhưng hoàn cảnh khách quan không cho phép vì
ngày ngày miền Bắc và cả Thủ đô Hà Nội luôn dưới tầm bom đạn Mỹ. Dù vậy chúng
tôi vẫn xúc tiến việc tìm hiểu kinh nghiệm các nước bạn để chuẩn bị sẵn sàng
làm truyền hình trong tương lai. Bản thân tôi tìm hiểu và biết rằng trong khối
cộng đồng xã hội chủ nghĩa chỉ có Cuba là phát hình theo hệ kỹ thuật
của Mỹ, phù hợp với hệ kỹ thuật ở Sài Gòn. Vì vậy, ngay từ năm 1967 nhân chuyến
đi thăm Cuba, tôi đã ký với Viện Phát thanh truyền hình Cuba một hiệp định hợp
tác và nước bạn sẵn sàng giúp Đài Tiếng nói Việt Nam đào tạo cán bộ làm truyền
hình cả về kỹ thuật phát sóng, và về công tác biên tập, đạo diễn làm chương
trình truyền hình”7.
Sau khi ký được hiệp định
với Cuba, Bộ biên tập Đài Tiếng
nói Việt Nam chọn 18 cán bộ,
vừa là kỹ thuật, vừa là biên tập viên của đài sang Cuba học 18 tháng. Cán bộ của chúng
ta đã được chuyên gia bạn tận tình giúp đỡ cả lý thuyết và thực hành trong tất
cả các khâu làm truyền hình, từ kỹ thuật ghi hình, dựng hình, thu trong, phát
hình đến khâu biên tập nội dung theo từng chương trình thời sự, ca nhạc, sân
khấu truyền hình, các chương trình mang tính chuyên đề, đạo diễn truyền hình,
âm thanh ánh sáng... Trong khi đó, những người ở nhà cũng cố gắng sưu tầm tài
liệu, cố gắng nghiên cứu để làm quen và từng bước tiếp cận với những kiến thức
cơ bản về truyền hình.
Sự chuẩn bị của Đài Tiếng
nói Việt Nam
đã không thừa. Cục diện chiến trường miền Nam
và cuộc đấu trí trên bàn ngoại giao ở Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã dự báo
những bước đi mới. Mỹ thất bại liên tiếp trong cuộc “Chiến tranh cục bộ” đến “Việt
Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, thất bại nặng nề trong cuộc leo thang phá hoại
miền Bắc lần thứ hai, đặc biệt trong cuộc đọ sức “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày
đêm đánh phá Thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác, buộc Mỹ phải đến Pari nối
lại đàm phán và Hiệp định Pari được ký kết, buộc Mỹ phải rút quân về nước.
Trước tình hình đó, việc
chuẩn bị cho sự ra đời của đài truyền hình trở nên cấp bách hơn. Trong điều
kiện khó khăn, thiếu thốn, ban biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục
xây dựng kế hoạch xây dựng và phát thử với phương châm: Tự lực, khắc phục mọi
khó khăn, quyết tâm làm bằng được.
Ngày 2-l-1970, Bộ biên tập
Đài Tiếng nói Việt Nam
triệu tập đoàn cán bộ mới được đào tạo ở Cu Ba về, cùng với những cán bộ khác
có tâm huyết để bàn cách làm thử truyền hình và giao nhiệm vụ cho các bộ phận
chuẩn bị. Bằng kiến thức đã được học tập cộng với sự vận dụng sáng tạo, các cán
bộ được giao nhiệm vụ đã làm được những việc phi thường, đó là chuyển một số
máy phát thanh sóng ngắn sang máy phát hình; lắp ráp hoàn chỉnh một cách cơ bản
trung tâm kỹ thuật bằng các vật tư kỹ thuật của đài phát thanh, tự chế tạo camera
điện tử...
Nhà báo Trần Lâm nhớ lại: “Sau
nhiều ngày phát thử thấy các khâu đều đảm bảo tốt, ngày 7-9-1970 chúng tôi
tổ chức buổi ra mắt. Khách mời là một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước để
chứng kiến sự ra đời của Đài Truyền hình Việt Nam. Trong số khách mời có đồng chí
Hoàng Tùng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương; đồng chí Phan Anh, Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao; đại diện Văn phòng Chính phủ; Uỷ ban Kế hoạch nhà nước; Bộ Tài
chính... tất cả là những người có thể giúp đỡ cho Đài Truyền hình ra đời.
Buổi phát rất đáng ghi nhớ.
Tất cả khách mời, diễn viên, phát thanh viên, cán bộ kỹ thuật, người ghi hình
đến ngồi chung trong một phòng rộng. Người xem có thể vừa nhìn phát thanh viên,
diễn viên biểu diễn trực tiếp, vừa xem cán bộ kỹ thuật ghi hình và xem hình ảnh
trên mônitơ kiểm tra và trên máy thu hình bắt từ máy phát sóng. Chương trình
gồm có 15 phút tin tức do hai phát thanh viên quen thuộc của Đài Tiếng nói Việt
Nam đọc thẳng, tiếp sau đó là nửa giờ ca nhạc do các diễn viên quen thuộc Thanh
Huyền, Bích Liên, Thuý Hà, Kiều Hưng biểu diễn bằng phương pháp lay back (tức
là chỉ thu hình còn tiếng thì thu trước để bảo đảm tiêu chuẩn).
Thành công quả là bất ngờ.
Hình ảnh trung thực, âm thanh tốt. Sau khi nghe giới thiệu về tính năng từng bộ
phận và quá trình lắp ráp, ai cũng xúc động khi biết lý lịch của hai camera
“ngựa trời”. Hai đồng chí Hoàng Tùng và Phan Anh đã hứa sẽ giúp cho Đài Tiếng
nói Việt Nam,
xin Chính phủ cho phép được chính thức làm truyền hình. Gần một tuần sau, chúng
tôi nhận được một lúc hai quyết định của Chính phủ do Phó Thủ tướng Lê Thanh
Nghị ký: một là giao cho Đài Tiếng nói Việt Nam chuẩn bị làm truyền hình; hai
là, cấp cho Đài 400.000 rúp để mua những thiết bị ban đầu cần thiết”.
Được sự quan tâm của Chính
phủ, những tháng cuối năm 1970, Bộ Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam gấp rút xây
dựng Đài Truyền hình như mua máy phát hình, xe ghi hình, lắp ráp ăng ten, xây
dựng Studio ghi hình... để chuẩn bị phát chương trình đầu tiên cho khán giả xem
truyền hình Thủ đô Hà Nội.
Tối ngày 27-1-1971, Đài
phát chương trình đầu tiên với câu mở đầu “Chương trình truyền hình thử nghiệm”
phục vụ khán giả Thủ đô Hà Nội. Thời gian đầu Đài Truyền hình Việt Nam phát mỗi
tuần ba tối, mỗi tối 2 giờ đồng hồ.
Năm 1976, xây dựng Trung
tâm truyền hình ở Giảng Võ. Cuối năm 1977, Chính phủ ra quyết định thành lập Uỷ
ban Phát thanh và truyền hình gồm cả Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền
hình trung ương và quản lý sự nghiệp toàn ngành phát thanh và truyền hình trong
cả nước. Đồng chí Trần Lâm được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban.
Như vậy là, ngày 7-9-1970
được coi là ngày khai sinh ra Đài Truyền hình Việt Nam. Từ đây, nền báo chí Việt Nam có thêm một
loại hình báo chí mới: Báo truyền hình. Nhân dân ta tiếp nhận thông tin qua một
kênh báo chí bằng hình ảnh với những ưu thế đặc biệt mà các loại hình khác
không có được./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét