(Nguyễn Bùi Khiêm) Đọc lại báo xưa, trên số đầu
tiên của Tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã có bài nêu rõ tôn chỉ, mục đích hoạt
động của tạp chí; đồng thời nêu rõ chương trình hoạt động, cấu trúc các chuyên
mục và nội dung của từng chuyên mục trong đó.
MẤY NHỜI NÓI ĐẦU
Nhà buôn mới mở ngôi hàng tất phải đề ra ngoài biển chiêu
khách: Bản hiệu “phát đoái” những thức gì, thức gì, lại thêm một câu: cực rẻ! cực tốt! Tòa Nội các mới lập thành tất phải
ra tuyên cáo với nghị viện: bàn chính phủ mưu toan những việc
này, việc này, rất là ich quốc lợi dân.
Muốn xét để hàng của nhà buôn có thực rẻ, thực tốt, thi phải
thử dùng mới biết được; muốn xét cái chính kiến của Tòa Nội các có thực ích, thực lợi thì phải đợi
thi hành ra thực sự mới biết được. Song cái lệ thường là dù
nhà hàng mới, dù chính phủ mới, lúc
khai chương, cũng phải có mấy nhời trình bày với bạn hàng, với quốc dân...
rồi mà đến sau sự thực
có trái với
nhời hứa thì cũng là phó ư bất vấn!
Cái lệ hay mà tiện thay!
Bản bảo mới xuất bản há
lại không theo lệ thường ư? và bản báo cũng tự phụ có một cái chương trình riêng,
thi há lại không lợi dụng cái lệ thường ấy
mà nói mấy nhời dông giài
với các bạn đọc
báo, ư? Trước là để làm quen với các ngài, sau là để các ngài biết chúng tôi định hiến các ngài thức hàng gi... không dám thêm câu: “cực đẹp! cực tốt!” như nhà buôn kia, nhưng nếu đồ hàng được vừa ý các bạn hàng, thì chúng tôi cũng lấy làm
vui lòng.
Trước hết xin nói bản báo không phải là một cửa hàng “thập cẩm”, không
dám đảm nhận với quốc dân rằng có đủ mặt hàng cho trẻ con người nhớn, cậu học trò, ông làm quan, nhà cầy ruộng, người bán buôn.
Bản báo không dám tự phụ đem ban bố cái phổ thông thí thức cho khắp các hạng người
trong xã hội, như mưa xuân tưói khắp cỏ cây.
Bản báo không dám có
cái chí to tát muốn vừa giúp cho cuộc kinh tế trong nước được
thêm phát đạt, lại vừa giúp cho sự khai hóa trong dân được càng
tiến bộ.
Bản bảo không
dám tự coi như một cửa công đường mà ra tay sử đoản những thói ăn cách ở hay dở dại
khôn của quốc dân.
Bản báo có một cái chuơng trình
riêng, một cái tôn chỉ riêng.
Trước nhất bản báo muốn đem
sức nhỏ tài mọn mà giúp cho sự học trong nước.
Ngày nay ai cũng biết rằng học giới nước ta chống chải suồng sã là nhường nào. Dân có giầu, người có khôn, nhưng sự học xem như còn mơ hồ lắm lắm. Mà có khôn, có giầu, ít học, thì tưởng cũng
chưa gọi là tiến bộ cho lắm.
Hoặc giả có người nói rằng: Ngày nay
trường học dựng lên nhan nhản,
đứa trẻ mười tuổi cũng biết điện khí hơi nước là
cái gì, cũng biết làm nổi bốn phép tính, viết được cái thư quốc ngữ hỏi thăm bố mẹ anh em; so với trước
sự học chẳng phải là có tiến bộ lắm dư?
Xin đáp rằng: Sự
học có năm bảy đường, người học có năm bảy hạng. Khác nhau chỉ bởi cái trình độ cao thấp mà thôi. Nhất bản quốc dân đều biết
chữ cả thì thực là một sự rất hay. Nước
lấy dân làm gốc,
trong dân nếu được nhiều người có cái thông thường học thức, thì cái gốc trong nước tất được bền chặt, cái nền trong nước tất được vững vàng thêm lên. Vả phàm sự
tiến bộ quan hệ đến một dân một nước, tất phải bắt đầu từ dưới lên. Trước dễ sau khó là cái nhẽ thường vậy. Như sự học trước phải cốt cho phổ thông, sau mới cầu được hoàn bị. Nhà nước Bảo hộ thực đã thâm hiểu nhẽ đó, cho nên trong việc khai hóa dân ta lấy sự phổ thông giáo dục làm một
sự yếu căn. Mỗi ngày mở thêm trường Pháp Việt để dậy dỗ cho bọn thiếu niên nước ta
biết những điều cần dùng nên biết. Nhờ đó ngày nay trong nước mới có nhiều trẻ đã biết điện khí hơi nước là
vật gì, đã làm nổi bốn phép tính, viết được một bức thư. Vè phương diện ấy thì có tiến bộ hơn xưa thực. Sự tiến bộ ấy hiển nhiên ai cũng biết. Nhưng xét về
một phương diện khác, thì xem
như sự tiến bộ còn chưa được rõ lắm; xét kỹ
thì ngờ rằng không biết có tiến bộ hay khòng. Nước cốt ở dân, dân chủ ở một bọn người gọi là bọn “thượng lưu”, hay là bọn “thức giả xã hội”, như nhà có cái nóc vậy. Nhà không có nóc thi ở sao được? Nước không có một bọn thượng lưu trí thức để giữ gìn cái cốt cách trong nước, để bồi dưỡng cái quốc túy, thì sao
gọi là một nước được? có nhà danh sĩ Pháp đã nói rằng: “Nước Pháp sở dĩ là nước Pháp, cũng chỉ nhờ một bọn bốn năm mươi người đại trí. Nếu không có bọn ấy thì nước Pháp không phải là nước Pháp nữa”. Xưa kia bọn thượng lưu trong nước ta là bọn nho học. Nước ta không có đẳng cấp sai biệt như các nước khác, song sùng trọng riêng một bọn nho, là vì bọn nho là đại biểu cái “cao đẳng học thức” trong nước. Ngày nay nho học không thích hợp với
thời thế như xưa, sự bài bác cái cựu học đã thành lộ, nhời bài bác đã thành sảo vậy. Nhưng bất luận cái cựu học hay hay là dở, cũng phải biết rằng đương thời
thực phù hợp với cái tình thế trong
nước, hợp với cái trình độ quốc dân, mà lâu ngày di truyền đã thành như cái nền cái gốc của sự sinh hoạt người
nước ta về đường trí thức, về đường
đạo lý. Về đường trí thức thì cái học vấn cũ đã in sâu vào trong não ta những
lối tư tưởng cảm giác, không bao
giờ mất hẳn đi được. Về đường đạo đức thì cái luân lý cũ đã gây dựng ra xã hội
ta, mà làm nền làm gốc cho cái gia tộc của ta, cùng các chế độ nhớn trong nước. Nhờ cái học vấn cũ, cái đạo đức cũ ấy, mà nuớc ta đã sinh tồn được
đến ngày nay, đã có một cái lịch sử cũ đến hai ba nghìn năm, đã chiếm cứ được một khu vực
riêng ở cái bán đảo trên bờ bể Nam Hải này.
Nhưng cái học vấn ấy, cái đạo đức ấy là học vấn đạo đức của một thời đại người nước ta chưa có cái tư tưởng, cái quan niệm gì đến thế giới. Ông cha ta đã đề tạo ra cái Tổ quốc ta, đã chung đúc thành cái quốc hồn ta, không ngờ rằng ngoài nước ta còn có nhiều nước khác, ngoài cái học vấn đạo đức của ta còn nhiều
cái học vấn đạo đức khác nữa, mà có ngày ta không thể không biết được. Ngày ấy nay đã đến. Người nước ta nay đã tỉnh giấc mộng trăm năm mỏi cái mắt mơ màng ra mà nhìn cái thế giới mới. Trông thấy những cảnh tượng lạ lùng mà kinh
mà sợ. Tưởng mình như người thầy tu khổ hạnh ở chốn già lam mà hốt nhiên ai đem ra giữa
một nơi thành thị nôn nao, cho đứng xem một đám cờ bạc hay một cuộc hội hè. Trước còn thấy những tiếng xôn xao dộn dịp chưa giải ra làm sao, sau nhìn kỹ mới biết rằng cái xôn xao dộn dịp
ấy là cái biều hiện sự hoạt động của loài ngưòi ta trong thế giới bây giờ. Sống ở trong thời đại này tất phải có một phần trong sự hoạt động ấy. Muốn có một phần trong sự hoạt động ấy, tất phải biết
cái cơ quan nó thế nào. Muốn biết cái cơ qnan nó thế nào, tất phải biết cái nguyên lý, biết cái
cỗi dễ nó, vậy thì tất phải
nghiên cứu cái học thuật của các nước văn minh bên Thái Tây,
là những nước chủ động trong thế giới bây giờ.
Nhưng phải nên nghiên cứu ra làm sao? Đó là cái vấn đề mà bọn thượng lưu trí thức trong nước ta phải giải quyết. Cái vấn đề ấy rất quan trọng, vì giải quyết vấn đề ấy tức là định cái thái độ người nước ta đối với cái
văn minh học thuật mới, cùng đối với đại quốc đã đảm nhận cái trách nhớn nhao đem ban bố cái văn minh học thuật ấy trong cõi Việt Nam này để đưa rắt dân ta lên đường tiến bộ.
Cái vấn đề ấy xem như bọn thượng lưu trí thức trong nước chưa từng lưu tâm đến lắm. Bởi thế cho nên dân ta theo đòi tây học đã ba bốn mươi năm nay mà trong tân học giới hãy còn vắng vẻ như không. Về đường phổ thông thì cũng có tiến bộ một
đôi chút, nhưng về mặt cao đẳng thì xem ra chậm chạp quá chừng. Đến
như cựu học giới thì bởi thời thế mỗi ngày, một eo hẹp mãi đi. Một mai rồi
cũng mai một đi mất. Đến bấy giờ thì cái công phu bồi dưỡng quốc hồn phó mặc cho ai?
Hiện nay cái công phu ấy đã trễ nải lắm rồi; quốc dân đã sụt xuống mấy bậc trên cái thang đạo đức,
mà cái thang tri thức cũng chưa từng thấy bước lên được bước nào. Phong tục đã thấy suy vi, nhân tình đã thấy kiêu bạc. Đã hay rằng cái buổi này là buổi giao thời, cái nền nếp cũ đã mất mà cái nền nếp mới chưa thành; nhưng nếu không vượt qua buổi này cho an toàn chót lọt thì cái tương lai ra làm sao?
Mấy anh em đồng chí chúng tôi băn khoăn về cái vấn đề ấy, mới mở ra tập báo này để cùng với các bực tri thức trong nước tìm cách giải quyết cho an thỏa.
Chúng tôi thiết tưởng rằng đương buổi bây giờ không gì cần cấp bằng gây lấy một cái cao đẳng
học thức mới để thay vào cái học
thức cũ đã gần mất. Vì một dân một nước không thể giây phút bỏ quá được một cái phương châm thích đáng về đường trí thức,
về đường đạo đức, mà cái phương trâm ấy phi tìm ở một cái cao đẳng học thức thì không đâu thấy được.
Muốn gây lấy một cái học thức như thế thì chúng tôi lại thiết tưởng rằng không gì bằng khéo điều hòa dung hợp
cái học cũ của ta với cái học mới thời nay khiến cho sự học của ta sau này vừa không đến nỗi thất bản mà vừa không đến
nỗi trậm thời. Vì sự học cũng như mọi sự “hiện tượng” khác trong cuộc sinh hoạt một dân một nước, phải có gốc mà
phải có ngọn. Cái ngọn là cái phần tăng tiến lên được mãi, cái gốc là cái nền vĩnh viễn của lịch sử đã
sây dựng lên. Có gốc thì mới vững được, có ngọn thì mới sống được. Có gốc mà không có ngọn thi là cái cây đã già cỗi, sắp
đến ngày mục nát; có ngọn mà không có gốc thì như cái dải giây leo tự mình không mọc thành cây được.
Trong nước ta ngày nay không những là những
người thuần cựu học mà không thích dụng với thời thế, những người thuần tân học cũng là không ứng thuận với quốc dân. Người nọ thiếu cái gốc mà người kia thiếu cái ngọn vậy. Chi
bằng ta tiếp ngọn nọ vào gốc kia mà gây lấy một giống cây riêng cho cái vườn Nam Việt ta?
Nhà làm vườn vẫn lấy việc tiếp cây là một việc khó. Nhưng nếu cái “nông phố học vấn” của ta còn thiếu thốn nhiều thì ta đã có ông thầy chuyên môn ở cạnh mình vạch đường chỉ lối cho ta.
Nhà nước Bảo hộ tất sẵn lòng mà giúp cho ta gây nên một cái tư trào
mới. Cái thiên chức của nước Đại Pháp xưa nay vẫn là đi dạy cho các dân các nước biết phát siển cái quốc túy của mình, khiến cho mỗi dân mỗi nước biết mình có một cái “nhân cách” riêng mà
sống theo cái “nhân cách” ấy, chớ nước Pháp chưa từng
bao giờ lấy sự đồng hóa các dân khác theo như mình làm một cái lương hảo chính sách. Nước Pháp vẫn biết rằng mỗi dân cũng tức như mỗi người, không người nào giống người nào, không dân nào giống dân nào, nếu cưỡng hóa cho giống nhau thì chỉ có hại mà không
có lợi. Bởi thế cho nên là khi sang cầm quyền chính trị ở nước ta, nước Đại Pháp vẫn tôn trọng những lề lối phong tục của ta, không hề phạm đến cái thể chế trong xã hội
ta, phạm đến cái giường mối của luân lý ta. Không những thế, mà nhà nước có khi lại còn
phải ngăn cái lòng nóng nảy quá đáng của nhiều người đồng bào ta muốn cấp tiến mà phá đổ cả cái nền nếp cảa ông cha. Ta nên thể cái chính sách khôn ngoan ấy, mà trong sự
nghiên cứu cái học thuật mới nên khéo kén chọn điều hòa cho quốc dân được một cái “đồ ăn của tinh thần” thích đáng.
Vậy thì cái trách nhiệm của bọn trí thức trong nước ta ngày nay thực là to tát lắm thay! Ta phải đưa đường chỉ lối cho quốc dân trong buổi giao thời này. Ta phải hiểu
rõ cáinghĩa vụ của ta đối với nước ta, đối với cái đại quốc đã nhận trách bảo hộ cho ta mà dạy cho ta biết cái thuật sinh tồn trong thế giới bây giờ.
Cái trách nhiệm của ta ngày nay có nặng, nhưng cái kết quả mai sau tất được thập phần lương hảo. Nhờ có nước Đại Pháp binh vực cho ta ở ngoài, trị bình cho ta ở trong, ta được yên ổn tiện lợi mà
tập lấy cái nghề khó làm một dân quốc trong cái đời sinh tồn cạnh tranh này. Bọn
học thức thì mở mang trí thức cho dân,
cho hiểu biết cái phép tiến hóa các dân các nước, cái nhẽ trị loạn đời xưa đời nay, mà lượng biết cái địa vị mình
cho khỏi sai nhầm. Bọn nông, công, thương, thì hết sức khai khẩn, chế tạo, vận chuyền, cho nước được thêm giàu có, thêm thịnh vượng mãi lên. Hết thẩy quốc dân đều một lòng khuynh hướng vào một cái mục đích chung, thì
sao chẳng có ngày đạt tới được? Biết đâu? đến ngày ta có đủ tư cách mà quản trị lấy công việc ta thì nhà nước hẹp gì mà chẳng cho ta được
quyền tự trị. Cái lượng nhớn ấy không phải là trái với chính sách của
nhà nước Bảo hộ, mà thực là
hợp với cái lý tưởng, cái lịch sử của nước Đại Pháp.
Nhưng trrước hết ta phải
cố công cùng sức mà làm ăn học hành, cho sứng đáng cái lòng
hi vọng kia, cái lượng nhớn nhao này.
Bản báo cũng
muốn giúp một phần nhỏ trong cái công cuộc nhớn ấy. Bản báo
muốn vun giồng lấy cái gốc học ở trong nước mà đưa cái tư tưởng của quốc dân vào đường chính đảng.
Cái tôn chỉ
của bản báo rất là thiết thực, cái ý hướng của bản báo
rất là phân mịnh. Còn sự thực hành được hay
chăng thì không dám nói trước.
Nay tập thứ nhất
mới xuất bản, gọi là có mấy nhời phiếm luận để cùng
với các bạn đọc báo giãi chút lòng si.
Ôi! trong sách có câu: Gió phương nam ấm áp, khá lấy giải được cái lòng hờn giận của dân ta! Ước gì bản báo cũng khiến được các bạn đọc báo có cái cảm giác như cái cảm giác gió Nam Phong! Bởi thế đặt tên báo.
Sau này xin liệt qua cái
chương trình của bản báo.
1. Cái mục đích của bản báo là
muốn gây lấy một nền học mới để thay vào cái nho học cũ, cùng đề xưóng
lên một cái tư trào mới hợp với thời thế cùng
trình độ dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới cùng cái tư trào
mới ấy là tổ thuật cái học vấn tư tưởng của
Thái Tây, nhất là của nước Đại Phap, mà không quên cái quốc túy
trong nước.
2. Bản báo không chủ sự phổ thông mà muốn làm cái cơ quan riêng cho bọn cao đẳng học giới nước ta, gồm cả những bậc cựu học cùng tân học mà dung hòa làm một.
3. Cái phạm vi của bản báo là gồm những sự học thuật tư tưởng đời xưa đời nay cùng những vấn đề quan trọng trong thế giới bây giờ.
Nhưng trong cách diễn thuật bình phẩm những
học thuật tư tưởng cùng những vấn đề ấy, bản báo vụ
theo lấy cái phương diện dản dị hơn nhất, cho thích hợp
với trình độ người nước ta.
4. Bản báo theo thể “tạp chí”, mỗi tháng
xuất bản một tập, vừa bang quốc ngữ, vừa bằng chữ nho, mỗi phần ước
50, 60 trang, chia mấy mục như sau này:
1). Luận thuyết.
2). Văn học bình luận.
3). Triết học bình luận.
4). Khoa học
bình luận.
5). Văn uyển.
6). Tạp trở.
7). Thời đàm.
8). Tiểu thuyết.
Mục “Luận thuyết” là những bài bàn chung về các vấn đề quan hệ với thời thế, nhất là những vấn đề quan hệ riêng với dân ta. Cái mục đích những bài luận thuyết ấy là cốt khiến cho người nước ta có một cái quan niệm phân minh chính đáng về những vấn đề ấy, để lý hội thông hiểu được việc nhớn trong thế giới cùng trong nước nhà.
Ba mục “Văn học”, “Triết học”, “Khoa học” là cái phần cốt trong bản báo. Cái thể là thể bình luộn, nghĩa là bàn rộng để mà lĩnh hội lấy cái nghĩa nhớn. “Văn học” là gồm những khoa văn chương, lịch sử, cùng đại để các môn học thường gọi tổng danh là văn
học. Mục này thường nhân những sách
hay, hoặc sách cũ, hoặc sách mới, mà bàn rộng ra để thâu nhặt
lấy những tư tưởng ý kiến mới mà hay; lại hoặc lược, hoặc dịch,
hoặc diễn thích mà giới thiệu cho người nước
ta biết những sách vở có danh tiếng
trong văn chương các nước đời xưa đời nay, nhất là văn chương nước Pháp là cái văn chương ta có thể trực tiếp mà lĩnh hội cùng thưởng giám được. “Triết học” là nghiên cứu các lý tưởng, lý thuyết, đời xưa đời nay, so sánh cái tư tưởng của Tây phương với cái tư tưởng của Đông phưong, mà giúp cho sự đề xướng một cái tư trào riêng cho nước
ta. Trong những bài bình luận về triết học này chúng tôi lấy cái “triết trung chủ nghĩa” làm cốt, nghĩa là không thiên về một cái học thuyết nào, cái
nào hay cũng thâu nhặt lấy. Nhưng cái tôn chỉ của chúng tôi là giúp cho sự tiến bộ của quốc dân về đường trí thức, về đường đạo đức, thì tất khuynh hướng về cái “duy tám chủ nghĩa” hơn là cái “duy vật chủ nghĩa”, “duy tha chủ nghĩa” hơn là cái “duy kỷ chủ nghĩa”. Vậy về đường tư tưởng chúng tôi thiên trọng cái triết học của nước
Pháp, vì cái triết học Pháp thực là gồm cả
bấy nhiêu cái khuynh hướng “duy tâm”, “duy tha”, mà thực là đáng làm mẫu cho cái tư tưởng mới
của ta. “Khoa học” tức là gồm
cả các khoa học chuyên môn (vật lý học, hóa học, bác vật học,
sinh lý học, số học, thiên văn
học, địa chất học…), cái phạm vi rất là rộng. Cái mục đích của chúng tôi không phải là muốn chuyên luận riêng về từng khoa một, mà làm như một lớp dạy cách trí đâu. Các khoa học, ngày nay mỗi ngày một nhiều, mỗi ngày một thêm phức tạp, dẫu
người đại trí dụng công nghiên cứu suốt đời cũng không thể biết khắp được. Bởi thế các khoa học mới thành
những khoa chuyên môn, nhưng vì chuyên môn quá lắm khi các nhà chuyên môn lạc mất cái nguyên lý, cái phép tắc, mỗi người có cái thiên ý xét sự vật theo phương diện riêng của môn học mình.
Chúng tôi muốn bàn chung về cái nguyên lý, cái phép tắc ấy, dồn chung về cái phương pháp của các khoa học, nghiên cứu những nguyên nhân nó đã khiến cho các khoa học phát đạt thịnh hành như thế, thuật lại cái lịch sử các khoa học sinh thành biến hóa ra làm sao, cùng cái lịch sử của các sự phát minh chế tạo nhớn trong khoa học giới. Mục này cũng có những bài chuyên luận về những vấn đề riêng của
một khoa học nào, nhưng đều là theo một cái tôn chỉ cai quát như thế cả.
Mục “Văn uyển” là để riêng cho những bài vận văn, tản văn, từ phú,
ca khúc... bằng quốc âm cùng
bằng chữ nho. Mục này sẽ rộng mở để hoan nghênh các nhà văn sĩ mới nước ta, nhất là những nhà đã khéo đào luyện cái chất
nôm mà mở đường cho một lối văn chương riêng bằng quốc ngữ. Chúng tôi mong ở các nhà văn sĩ mới ấy lám, vì bao giờ nhời nôm ta có được “bằng nhập tịch” vào cõi văn chương thì sự học trong nước mới có cơ phát đạt lên được, văn chương vốn là cái máy truyền đạt tư tưởng rất nhậy!
Mục “Tạp trở” là gồm những bài nho nhỏ, những truyện vụn vặt, không thuộc vào các mục trên, những bài giới thiệu các sách mới, những nhời thanh ngôn trích lục
các sách, những tin tức
về học giới...
Mục “Thời đàm” là mục bàn về thời sự, về các việc nhớn trong ngoài. Bản báo sẽ binh tình mà thuật lại những
việc quan hệ về chính trị trong nước, khiến cho quốc dân hiểu rõ cái chính kiến của nhà nước, cùng những
sự nhà nước mưu toan ích lợi cho dân ta. Trong mục này sẽ để riêng một phần để thuật cái đại thế cuộc chiến tranh rong một tháng.
“Tiểu thuyết” thì dịch những tiểu thuyết hay ở tiếng Pháp ra. Trong sự kén chọn
những tiểu thuyết hay để dịch,
chủng tôi sẽ chủ nhất một điều: là chọn những sách văn chương hay,
kết cấu khéo, khá lấy làm mẫu cho cái lối tiểu thuyết của ta về sau này.
Sau hết, mỗi số sẽ thêm mấy tờ “Tự vựng” để diễn thích những tiếng mới. Từ vựng có ba phần: một
phần quốc ngữ, một phần chữ nho, một phần chữ pháp. Tưởng cũng
là một việc có ích, có thể giúp được những người hoặc biết chữ tây mà không biết nghĩa ta,
hoặc biết chữ nho mà không biết nghĩa tây; cốt nhất là để định nghĩa những chữ mới cho dùng khỏi sai nhầm, mà đặt cái cơ sở một bộ “Pháp Nam đại tự điển” về sau này.
PHẠM QUỲNH
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét