VĂN PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT
TRONG NHỮNG NĂM 20
VÀ THƠ CA CỦA TRÍ THỨC CÁCH MẠNG
Trích từ Văn học Việt Nam
(1900 –
1945)
|
Nguyễn Ái Quốc phê phán phủ định chủ nghĩa đế quốc thực dân trên phạm vi
toàn cầu, trong tất cả các lĩnh vực - chính trị, kinh tế - xã hội, đạo đức, tôn
giáo, -bóc trần toàn bộ công cụ của chủ nghĩa thực dân
quốc tế dùng đàn áp và bóc lột nhân dân các nước thuộc địa - đội quân xâm lược,
giáo hội Thiên chúa, Hội quốc liên, bọn phong kiến bản xứ tay sai của chúng.
Người chỉ rõ mục tiêu bóc lột kinh tế của chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu ấy,
chúng không từ một thủ đoạn nào. Nguyễn Ái Quốc vạch tội ác man rợ của các cố đạo, “những nhà khai hóa”, “các quan
thống đốc”, “các quan cai trị” của chủ
nghĩa thực dân ở thuộc địa. Người kết án chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc. Người tố cáo, nguyền rủa chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.
Người phơi trần lên trang giấy nạn thất nghiệp đè nặng lên cuộc sống hằng ngày
của nhân dân lao động ở các
nước tư bản chủ nghĩa. Dưới ách của chủ nghĩa thực dân, nhân dân ở các nước
thuộc địa bị đóng “thuế tiền” và “thuế
máu” bị đàn áp bắn giết, bị bóc lột tàn tệ, bị chia rẽ, bị xô đẩy vào rượu
chè, cờ bạc, đĩ điếm. Quả thật “ở trên thế giới, không có dân tộc chiến bại nào
bị áp bức và hành hạ bằng các dân tộc thuộc địa”[1]. Người đưa ra trước công luận nỗi thống khổ của
nhân dân các nước thuộc địa không chỉ về phương diện quyền độc lập dân tộc mà còn dưới góc độ quyền con ngựời trong thế giới hiện đại (371). Trong các nước đế chủ nghĩa, người da đen bị hành hình trên đống lửa, nhân dân lao động bị nạn
thất nghiệp và chiến tranh phi nghĩa cướp mất miếng
cơm, manh áo. bị cướp mất mạng sống, chốn nương thân. Nguyễn Ái Quốc nhẩn mạnh: “Áp bức không trù một chủng tộc nào”[2].
Người chỉ rõ, trên thế giới chỉ có hai hạng người - hạng người áp bức, bóc lột và hạng người bị
áp bức bóc lột.
Trong những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc khống chỉ có sự phê phn phủ định triệt để, sâu
sác, toàn diện chù nghĩa
thực dân hung
bạo , thù đich với con người, với văn minh,
mà còn có sự lý giải, minh chứng về sự sụp đố tất yếu của nó. Nguyễn Ái
Quốc đau xót với nỗi khổ về vật chất và tình thần của những người dân thuộc địa, của nhân lao động, đồng thời tin
tưởng ở khả năng của họ trong cuộc đấu trannh
tự giải phóng. Người khẳng định: “Kách mệnh là
việc chung của dân chúng chứ không phải vỉệc của một hai người” (Đường kách mệnh), trong đó
giai cấp công nhân chiếm vị trí trung tâm
và dẫn đạo. Người nhận rõ những hạn chế lịch sừ và giai cấp của cách mạng dân chủ tư sản. Chẳng hạn, Cách
mạng Mỹ 1776 và Cách mạng Pháp 1789 - “hai cuộc
cách mạng không đến nơi”. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Cách mạng XHCN tháng Mười vĩ đại và
công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước Xôvìết đã
làm Nguyễn Ấi Quốc phấn khởi, tin
tưởng, rằng chỉ có con đường cách mạng vô
sản là con đường duy nhất đúng đắn giải phóng dân
tộc và giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột.
Cánh cửa lịch sử đã mở về
phía tương lai và chiến thắng. Khả năng đưa nhân dân Việt Nam và nhân dân các
nước thuộc địa khác từ cái bị phủ định – các dân tộc nghèo khổ và lạc hậu, bị
thất bại trước chủ nghĩa thực dân – thành cái phủ định, đã được phát hiện, về
lý luận cũng như về lực lượng thực tiễn và hiện thực cuộc sống. Cơ sở của sự
phản ánh khẳng định trong những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ đó.
Để phản ánh khẳng định, Người đã xây dựng những hình tượng nhân vật tích
cực soi sáng tính cách anh hùng, bền bỉ của nhân dân Việt Nam. Ở đây, Nguyễn
Áì Quốc kế thừa và phát triển truyền thống
giáo dục bằng lịch sử và người thật việc thật.
Những hình tượng nhân vật tích cực như Trưng Trắc và Trần Quỹ trong Lời than văn của Bà Trưng Trắc, Phan Bội
Châu trong Những trò lố hay là Varenne và Phan Bội Châu, hai chàng
trai nông thôn thà bị bắn chứ khống
thể chỉ đúng đường cho quân thù đến nơi
nghĩa quân chống Pháp đang ẩn nấp[3], được mô
tả chính là theo ý nghĩa đó. (372) Soi sáng tính cách anh hùng, bề bỉ, đoàn
kết, hy sinh vì đại nghĩa, Nguyễn Áí Quốc
tin tưởng vào nhân dân mình, Người muốn sửa chữa “căn bệnh của thời đại” - bi quan chán nản trước tiền đồ của đất nước - lúc đó lan tràn trong xã hội. Người tìm thấy ở tính cách dân tộc sự đảm bảo
cho thắng lợi của con đường cách mạng từ chủ nghĩa yêu
nước dẫn thẳng tới chủ nghĩa xã hội: “Đàng kia ấy, nơi mặt trời đang mọc huy hoàng khôn
xiết, nơi tung bay lá cờ Nhân đạo và Lao động! Đấy! Chính đấy... là tương lai
của các dân tộc”[4] . Đó là
chỗ khác biệt về nguyên tác của những văn phấm của Nguyễn Ái Quốc so với những tiểu thuyết lịch sử xuất hiện ở
trong nước vào nửa sau những năm 20 và cả tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử, những “tiểu
truyện”, “truyện” của Phan Bội Châu.
Sự tập trung mô tả hoàn cảnh xã hội bi đát của những người khổn khổ, nạn
nhân của bất công và chiến tranh phi nghĩa dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, trong sự tương phản gay gắt với cuộc sống xa hoa, thừa thãi và biếng lười của
bọn bóc lột, ăn bám; sự hiện diện của nhân vật - người
chứng kiến ở truyện ngắn Paris gần gũi với sự phản ánh của các truyện ngắn của chủ
nghĩa hiện thực phê phán. Thế
nhưng tác giả truyện ngắn này
đã nhìn những mâu thuẫn xã hội ấy bằng đôi mắt nhân đạo chủ nghĩa của một
người dân thuộc địa đã giác ngộ về những
nguyên nhân của bất công và tội ác dưới chế độ đế quốc, nên đã thấy không chỉ
phẩm giá của những người lao động đã bị chủ nghĩa tư bản ném ra lề đường, mà
còn sự căm phẫn có ý thức của
họ. Giữa những ông già khốn khổ Pari và người thanh niên thuộc địa đã hình
thành một quan hệ gần như tình bạn. Đáng chú
ý là ông già đã bộc lộ sự căm phẫn cao độ cái xã hội gây ra cuộc chiến tranh
hủy diệt giết người vợ thân yêu và tất cả các con thương mến của ông, phá tan
tổ ấm của ông, biến một người lao động cật lực bao nhiêu năm như ông thành kẻ hành khất sống nhờ vào của bố
thí. Như được rũ bỏ những yếu đuối vì bị đau khổ và cô đơn cấm tù, ông già cùng khốn của Pari đã đứng thẳng
dậy bên cạnh một người lao động Việt Nam, và nếu có thể nói được, ông già đã
tìm thấy chỗ dựa cho cuộc sống của mình. Ông đã lớn lên, không còn là “bé nhỏ”,
“đáng thương” nữa. Và tác giả - người lao động Việt Nam, người chứng kiến, cũng
khác thường so với nhân vật loại đó trong văn học của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Mối quan hệ giữa ông già và tác giả
là mới mẻ, như báo hiệu của tình đoàn kết quốc tế của nhân dân lao động ở chính
quốc và ở thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc được mô
tả trong những văn phẩm sau này của Nguyễn Ái Quốc.
Người nhìn thấy dòng thác những người nô lệ đang thức tỉnh, đang trở
thành người, từ nạn nhân trở thành cứu nhân, tự cứu mình ra khỏi ách áp bức, bóc lột. Cái lôgíc biện chứng ấy của thời đại là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Chẳng hạn, tác phấm chính luận lớn của Người: Bản án chế độ thực dân Pháp (373). Trong tác phẩm này
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ nhân dân các nước thuộc địa dang đứng lên cải tạo thế giới, vươn tới một cuộc sống tươi
sáng, tráng lệ mà nước Nga Xôviết đã mở ra, đó là
hình tượng bao quát, tương phản gay gắt với hình tượng những tên thực dân, những tên tư bản, những kẻ phân biệt
chủng tộc.
Nguyễn Ái Quốc viết văn tiểu phẩm, châm biếm, viết những tác phẩm đựa vào
lịch sử, người thật việc thật.
Truyện ngắn Đồng tâm nhất trí không
thuộc những loại tác phẩm như vậy. Ở Đồng tâm nhất trí tác
giả muốn nhắn gửi đến độc giả điều gì? Mô tả anh Hai và anh Ba đi chợ dưới nắng trưa, Nguyễn Ái Quốc viết: “Mặt trời đứng bóng chiếu
ướt đẫm những bắp chân bắp tay lực lưỡng gần như để trần của hai anh. Bốn chiếc thúng nặng nề đung đưa ở đầu hai đòn gánh tre đặt ngang trên vai cháy nắng. Bụi cuốn lên quanh bước chân thoăn thoắt thành một thứ màn sương...”. Đọc đoạn văn này, ai cũng thấy rõ anh Hai, anh Ba là hai người dân đổi bát mồ hôi
lấy bát cơm; độc giả hiểu đồng tâm
nhất trí của anh Hai, anh Ba là giao ước của hai người có cùng một mục đích: làm ăn lương thiện kiếm miếng cơm. Ở tác phẩm này bạn đọc cần chú ý rằng những câu hát
tiếng Việt, thể lục bát, kèm theo bản dịch sang tiếng Pháp đều của Nguyễn Ái Quốc. Kon mèo được Nguyễn Ái Quốc dịch sang tiếng Pháp Seigneur Chat là sâu sắc, ở chỗ Người thông hiểu mỹ cảm của độc giả Pháp:
ngụ ngôn của La Fontaine lên án cay độc những “kẻ lớn”, những nhân vật của giới thống trị; theo
truyền thống này của La Fontaine,
độc giả Pháp có ác cảm với Seigneur
Chat - Chúa Mèo, dồn hết thiện cảm cho Rát - con chuột. Bởi vậy, con mèo được dịch là Seigneur Chat,
không phải là cải biên bài đồng dao Việt Nam, trái lại, giúp độc giả Pháp nhận thức đúng bài đồng dao đó, như bạn đọc Việt Nam. Bầy chim quạ được
Nguyễn Ái Quốc dịch là vilains
corbeaux - những con quạ xấu xa; khác với les corbeaux - những con quạ (nghĩa đen, trung tính về biểu cảm), hoặc những thầy tu (nghĩa xấu),
hay những kẻ tham lam mà ngốc (nghĩa
bóng), là
những nghĩa không tương hợp với nội dung của hai câu lục bát về bầy chim
quạ ăn xoài chín cây trên núi Thiên
Thai. Đọc và suy nghĩ, độc giả thấy: thay vì hát những bài ca lao động để vợi bớt nỗi nhọc nhằn của gánh nặng
đường xa, anh Hai và anh Ba hát lên những bài hát buồn về mèo, chuột, về bầy chim quạ ăn xoài chín cây. Những câu hát này ám chỉ một xã hội ở đó
người áp bức, bóc lột người. Kể chuyện
như vậy, Nguyễn Ái Quốc muốn nói: nhân dân
lao động đang suy ngẫm rốt ráo về hoàn cảnh sống của mình, nghĩa là họ đang
thức tỉnh. Anh Hai nói: “Khôn ngoan hơn cường bạo, kẻ
yếu chỉ có cách đó để tự vệ” sau khi hát bốn câu lục bát về mèo, chuột; anh Ba bình luận: “Bài chú hát sao nghe
buồn quá! Nhưng mà sự thật là thế. Ở đâu
cũng thấy cái giống chim chóc biếng lười, nó chẳng chịu làm lụng gi cả, chuyên bòn cái của người khác
làm ra mà ăn” sau khi nghe anh Hai hát hai câu lục bát về bầy chim
quạ ăn xoài chín cây (374). Hai bài hát thì cũ mèm. Điều mới mẻ là ở chỗ anh Hai và anh Ba cắt nghĩa
hai bài hát ấy, nói to lên cái
sự thật của hoàn cảnh xã hội ở đó hai anh đang sống.
Lời của anh Hai và anh Ba là lời của hai người đồng tâm, chứ không phaỉ là “những cầu triết lý yếm thế”, “triết lý đầu hàng”[5] như có người
nhận xét. Ở đây bạn đọc nào
thâm thúy thì nhớ tới câu: “Nhị nhân đồng tâm, kỷ lợi đoạn ki,” (hai
người đồng
lòng, thì lợi khí của nó có
thể chặt được
sắt).
Anh bán hàng mã, theo lời anh Ba, nhúng
hai thúng hàng của mình xuống dòng nước
trong veo; rồi, theo lời của anh Hai, anh Ba phơi gánh
trầu không của
mình dưới ánh nắng mặt trời. Sự đồng tâm đó được chứng nghiệm bằng
hành động dứt khoát của anh Hai và anh Ba. Truyện ngắn kết thúc.
Viết những lời đối thoại của anh Hai và anh Ba trong đoạn đầu của truyện, Nguyễn Ái Quốc đã hé mở những dấu hiệu khác thường, nhưng bạn dọc nương theo câu tục ngữ “buôn có bạn,
bán có phường” nên không để ý đến những dấu hiệu
đó và vai trò khởi xướng của anh Ba trong viộc “cùng
nhau giao ước thắt chặt hữu ái”. Ở đây Nguyễn Ai Quốc đảm bảo nghiêm ngặt sự thống nhất giữa lôgíc nghệ thuật và lôgic cuộc sống - xã hội. Thế nhưng, viết đoạn hai
của truyện, tác giả chủ tâm phá vỡ sự thống nhất đó, bởi vì không phá
vỡ nó,
Nguyễn Ái Quốc không thể trình
bày được thái độ của anh Hai và anh Ba (trình bày một cách kín đáo,
tất nhiên) đối với trật tự của xã hội hiện hành. Hai bài hát buồn, chứ không phải
là hai bài ca lao động, của anh Hai chính là sự phá vỡ như thế. Việc phá vỡ sự thống nhất của lôgic nghệ thuật và lôgic cuộc sống - xã hội đạt tới đỉnh cao khi tác giả mô tả hành động của anh Hai và anh Ba thực
hiện lời thề đồng tâm nhất trí. Ở đây cái phi lý đã được sử dụng. Cái phi lý trong
nghệ thuật không xa lạ với loài người ở Đông và ở Tây, ở thời cổ đại và thời hiện kim. Nhờ sử dụng cái phi lý, tác giả đã nói được điều hợp lý, đáng tin: đống tâm nhất trí chỉ được coi là đích thực khi thể hiện bàng hành động
thực tế. “Trăm nghe không bằng một thấy” mà!.
Đồng tâm nhất trí nằm trong những nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc nhằm làm
cho những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân ở Pháp và ở châu Âu hiểu rằng nhân dân lao động ở Việt Nam và ở các nước thuộc địa khác có khả năng nhận thức hoàn cảnh bị áp bức, bóc lột của mình, do đó đoàn kết lại để thay đổi cuộc sống; nhằm thúc đẩy sự phát triển của quá trình giác ngộ giai cấp của nhân dân lao động ở Việt Nam và ở các thuộc địa khác (375).
Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc Người biết mùi hun khói được đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp số ra ngày 22 tháng 7 năm 1922. Ở thời
điểm lịch sử này chủ nghĩa thực dân còn phủ đêm đen lên các lục địa Á, Phi, Mỹ Latinh, nước Nga Xô viết còn là quốc gia xã hội chủ nghĩa độc
nhất trên thế giới vừa ra khỏi cuộc nội chiến và sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, khắp nơi còn ngổn ngang cánh tàn phá, đố nát, đói rét, tật bệnh. Nhưng qua sự mô tả trực tiếp của tác giả về cuộc diễu hành quần chúng và lời kể của Kimengo - nhân vật trung tâm của tác phẩm - người
đọc hiểu nước Cộng hòa Liên hiệp Phi đã đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa, chế
độ thực dân đẫm máu đã bị đẩy lùi vào quá khứ. Tạo dựng nhân vật Kimengo như một nô lệ của chủ nghĩa
thực dân trở thành một lãnh tụ
kiểu mới của phong trào giải phóng
dân tộc “am hiểu tường tận mọi sự kiện
của thời đại”, có
khả năng thức tỉnh và đoàn kết các dân tộc da đen và da
trắng trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, dẫn dắt nhân dân
tiến tới chủ nghĩa cộng sản, Nguyễn Ái Quốc vẽ ra trước mát bạn đọc hình mẫu con người toàn diện,
hoàn thiện - hài hòa với xã hội, hài hòa với thiên nhiên - của đấu tranh cách mạng và của xã hội tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét