|
Vũ Ngọc Phan
(Trích từ Tuyển tập, tập IV)
|
Tháng Tư 1940 - Phong dao có câu: “Ba năm lưu lạc giang hồ, một ngày tu lại cơ đồ vẫn nên”. Nếu muốn nói về những nhà văn muốn có sự nghiệp
văn chương, câu trên này cần phải đổi là: “Mười
năm bút mặc giang hồ, có về Hà Nội cơ đồ mới nên”.
Ông muốn viết hay, viết
tài đến đâu thì viết, tha hồ ông vẽ rồng vẽ phượng, tha hồ ông nhả ngọc phun
châu, nhưng nếu ông cứ yên trí ông là một nhà đại văn hào hay một nhà đại ngôn
luận, rồi ông viết những sách, những báo chỉ lưu hành quanh quẩn trong một vài
tỉnh xa lắc mà
Hà Nội không biết đến, tôi đố ông có thể trở nên một nhà văn hay một nhà báo có tên tuổi trên văn đàn hay trong báo
giới Việt Nam. Một nhà văn Tàu, một nhà văn Nhật hay một nhà văn Pháp; nghe nói
như thế tất phải
lấy làm lạ. Nhưng đối với nhà văn, nhà báo Việt Nam ta, lời nói trên này không
lạ chút nào. Họ đã hiểu lắm, và hiểu từ lâu rồi. Cho nên nói đến nhà văn và nhà
báo, Hà Nội thật không hiếm. Đám tang Nguyễn Văn Vĩnh và cuộc hội nghị báo giới
ở sân quần
C.S.A., tại Hà Nội cách đây chưa lâu, có thể chứng rằng số các ông ấy đông hơn cả số thợ mà người ta dùng để làm cho tờ
giấy trắng trở nên tờ báo
hay quyển sách.
Nhưng cũng vì số sách báo có chừng còn số các nhà văn nhà báo
không thể đếm
được, nên cái số người
được phô bày văn chương tư tưởng của
mình bằng mực in không được nhiều cho lắm, và cũng vì lẽ ấy, sự tập luyện của
các ông có hơi giống sự tập luyện của những chú lính Tàu thuộc dưới quyền mấy
tay đốc quân hồi xưa. Tuy là
binh lính, một năm những chú lính Tàu chỉ sờ đến súng độ vài ba lần; cũng như ở nước Nam có những nhà viết báo một vài năm mới viết một bài báo. Một vài năm các ông mới có một bài văn ra
mắt công chúng, rồi chỉ ít lâu, tên các ông lại chìm trong sự xao lãng của
người đời.
Trong số những người ấy, nhiều người chỉ là những người xấu số, không gặp may. Nghề viết báo và nghề viết
văn tuy là những nghề rất tự do, nhưng “thân tự lập thân” vẫn là một sự rất
khó. Có những sự ganh ghét, có những sự dìm nhau nó làm cho những người (43) hơi có chút tài năng vừa mới vác bút nhô ra, đã lại phải lẩn vào trong bóng
tối.
Tôi biết nhiều người thanh niên muốn làm nghề viết,
nhớ tờ báo mà có lần mình đã được đăng bài như người cung phi nhớ vua vậy:
Trên chín bệ có hay chăng
nhẽ?
Khách quần thoa mà để lạnh lùng!
Ngòi bút thép mỗi ngày một han rỉ, bài gửi đăng
mong mãi chẳng thấy đăng cho. Phần
nhiều họ là những người nghèo, nhưng họ đã phải dốc túi để mua tem gửi
bài, để mua liên tiếp những số báo sau khi bài của mình đã gửi đi, và ngày ngày
hay tụần tuần họ chăm chú tìm tên họ trên những trang giấy in chi chít. Cho đến
những mục “Hộp thư”, “Nhắn bạn” cũng không bao giờ họ bỏ sót.
Không thấy bài mình được đăng, có người uất ức về
nỗi chẳng gặp thời, lại xách khăn gói trở về quê, nhưng vẫn không khỏi nhớ tiếc cái
cảnh Hà Nội đã bắt đầu quen thuộc với mình...
*
Ở đời ngẫm ra thật có ít người biết điều. Người ta
tưởng có quyền để bôi nhem tờ giấy. Nếu họ đem dán chơi những cái họ viết trong
nhà họ thì còn nói làm gì nữa. Nhưng một khi đã công bố lên mặt báo
thì cũng không nên lấy làm lạ khi có những kẻ cùng nghề nói đến mình.
Người ta tưởng nghề viết là một nghề dễ dàng;
viết một bài báo hay một bài văn theo ý người ta, cũng như đánh một ván cờ chân
chó. Người ta tưởng thế rồi người ta tin, người ta vác bút viết lia lịa mỗi
ngày vài ba cột báo...
*
Tháng Năm 1940 - Chuyện làng báo Hà Nội có thể ví với câu chuyện
trong Thiên Phương Dạ Đàm, vì
trong chuyện làng báo lại có (44) nhiều chuyện khác, rồi trong những chuyện
khác ấy lại có nhiều chuyện khác nữa, tưởng như không bao giờ dứt được.
Đây lại một chuyện nữa:
Ở một tòa báo tại Hà Nội, có một ông chủ báo được
tiếp một ông bạn đồng nghiệp ngoại quốc.
Ở các nước văn minh mà bất kỳ là nước văn minh nào
báo ra mỗi ngày ba bốn lần và mỗi lần hàng triệu số là sự thường. Ở các nước ấy, lương viên chủ bút
thường nhiều hơn cả lương một quan thượng thư, nhà báo lại có cả phi cơ để đi
điều tra và chở báo đi các tỉnh. Như vậy, một nhà báo ngoại quốc mà đến điều
tra về tình hình báo chí ở nước ta thì làm gì chả phải chép miệng và lắc đầu.
Quả nhiên nhà viết báo ngoại quốc đã lắc đầu và
chép miệng mà nói với ông chủ nhiệm tờ báo quốc văn rằng: “Báo Đông Dương còn ở
vào một địa vị rất thấp và chưa gây được một dư luận gì”.
Thật là đứng sự thật một trăm phần trăm, không còn
ai cãi vào đâu được...
Nhưng, nếu so với cái lối viết của chúng tôi bây
giờ với cái lối viết của mấy ông đàn anh chúng tôi về ba bốn mươi năm về trước,
chúng tôi thấy chúng tôi đã tiến bộ không phải ít.
Đây ông bạn đồng nghiệp ngoại quốc hãy đọc mấy cái
tin sau này trong một tờ báo đáng kể là một tờ báo thông tin trước nhất của Hà
Nội, tờ Đại Việt tân báo, xuất bản năm 1905, báo
quán ở giữa chốn kinh kỳ: Phố Hàng Mã:
Cưới vợ
Cứ như trong Kinh Thi nói
thì sự cưới vợ gả chồng là một việc hay và vui vẻ lắm.
Ông Duvillier là quan công sứ tỉnh Ninh Bình có người con gái
gả cho ông chủ đồn điền ở Nha Đồng,
tên là ông
Villarem. Đã làm lễ cưới hôm 20 tháng năm tây. Chúng tôi kính chúc hai vợ chồng ông ấy mọi sự tốt lành, xum hiệp mấy nhau.
|
(Đ.V.T.B số 3, ngày 21 Mai 1905). (45)
|
Đó là một tin mừng...
Còn đây là một “Việc Hà Nội”:
Việc biên phạt
Nguyễn Thị Ca 20 tuổi ở phố Hàng Hành, thả chó ra đường không có khóa miệng nó lại, cho nên phú lít trông thấy đã biên phạt thị ấy. Lúc thị ấy thấy người ta biên phạt mình như thế thì trong bụng cũng lấy làm lạ. Nhưng mà thử nghĩ
kỹ lại mà xem thì biết rằng người ta
làm thế là cho người trong thành phố được yên. Như ai có chó thì nên giữ trong nhà. Bởi rằng thường thường, người ta phải chó điên nó cắn luôn, mà khi chết cũng gớm lắm. Nay nhờ có một ông thông thái người nước Đại Pháp tìm được một bài thuốc
mới để cứu cái bệnh ấy, thì thiên hạ ai cũng biết ơn…
|
(Đ.V.T.B số 5,
ngày 4 Juin 1905)
|
Rồi mấy dòng cải chính sau này với cái
nhan đề: “Nhời cáo bạch”.
Đặng Xuân Bảng là quan đốc học cũ tỉnh Nam Định, bây giờ vẫn đương mạnh giỏi, kỳ trước chúng tôi nghe nhầm mà
bảo rằng ngài mất, chúng tôi nay xét ra thì là ông Đặng Xuân Toản mất, chúng
tôi tự biết rằng nói nhầm; lấy làm hối lắm, tưởng rằng quan Đặng Xuân Bảng ngài cũng thứ miễn đi cho.
|
(Đ.V.T.B số 26, ngày 29, Octobre 1905)
|
Về văn chương, tôi cũng xin trích nguyên văn một
bài sau nấy về “văn học nước Pháp”. Bài này đăng trong Đại Việt tân báo, số 7,
ngày 18 Juin 1905:
Đại Pháp văn chương
Bài ngụ ngôn của ông Lafontaine ở bên Tây có một quyển sách mà lớn bé già trẻ ai cũng thích, không bao giờ chán
là quyển Thơ nhỏ mà ông Tây thông thái đã làm ra khi ông đi dạo chơi sơn thủy. Những
người nói ở trong
truyện là mượn những thú vật, song người ta cũng đoán được rằng những giống ấy
cũng như người đời bây giờ (46). Người làm sách giỏi lắm vì nói được sự hay dở người ta mà không phạm đến ai.
Chúng tôi sẽ nói nhiều
chuyện ấy không bằng
thơ thật, song chúng tôi có ý làm cho rõ cái ý thực của ông làm sách. Chúng tôi
lại nói rằng sách ông này làm ra thiên hạ đâu đâu cũng biết, vì lấy làm hay cả...
Như thế đủ biết, trong khoảng ba bốn
mươi năm nay… báo chí Việt Nam ở Hà Nội cũng đã nảy nở hơn xưa được nhiều rồi.
Tháng Sáu 1940 - Cũng như các nơi khác ở Đông Dương và ở gần khắp hoàn cầu nữa, báo chí
Hà Nội hồi này thật là nguy ngập. Nguy ngập về giấy. Nhưng tôi dám chắc có một điều báo
chí ở đây không giống báo chí ngoại quốc là báo chí ở đây còn nguy ngập cả về
độc giả nữa.
Hạt gạo là thứ cần để nuôi thân thể, nhưng ở nước
ta, tờ báo chưa phải một thức ăn cần thiết về đường tinh thần cho người ta.
Bởi vậy câu chuyện làng báo, nếu xét cho đến ngọn
nguồn là một câu chuyện cả về vật chất lẫn tinh thần...
Giấy cao và khan. Mực hiếm và lên giá. Các nhà báo
lo nghĩ về giấy nhiều quá, thành ra mụ cả người!...
*
Tháng Bảy 1940 - Trong lúc các báo ở Hà Nội đang lụn bại về trăm đường thì các nhà xuất bản
mọc lên như nấm.
Có thể gọi là một phong trào xuất bản được.
Những người xưa kia làm việc khác, rất xa cái nghề
xuất bản… bây giờ cũng sinh ra bạc bẽo với nghề cũ và xoay ra nghề buôn văn.
Thật nhờ kim tiền, họ đã bước từ nghề dưới lên nghề trên có một bước. (Tôi muốn
gọi nghề buôn văn là nghề trên, vì văn chương là một thứ xuất sản của bộ óc con
người).
Như vậy, không nói ai cũng biết, nghề buôn văn bây
giờ là một nghề đã có thể làm giàu được... (47).
...Sách lại là một thứ dễ giữ hơn mà cái tâm lý của
con người ta là một khi đã mở hầu bao thì muốn có được thứ gì lâu hỏng.
Đó mới chỉ là một phần trong luật cung cầu. Đã có
người cầu, lẽ tự nhiên phải có người cung; nhưng cái số người cung mà mọc
lên như nấm tất còn vì một lẽ gì khác nữa.
Người ta vốn là nhà buôn nên việc buôn văn của
người ta cũng không ngoài sư tính toán.
Bốn trang báo, bán có năm xu, nếu lại ra phụ trương
thí dụ tất cả tám trang, cũng chỉ bán có năm xu. Thế là tiền trả người viết tăng,
tiền giấy tăng, mà giá báo vẫn không tăng. Trông vào quảng cáo? Lúc này có hàng đâu
mà người ta rao hàng?
Còn về sách: bốn trang báo gấp lại được ba mươi hai
trang sách, tám trang báo gấp lại được sáu mươi tư trang sách: Hai tờ báo, mỗi
tờ tám trang, chỉ bán có một hào. Vậy nếu dùng hai tờ báo như thế để làm một quyển sách
thì được một quyển sách 128 trang!
Với một cái bìa mỏng mảnh, quyển sách từng ấy trang
đã có thể bán một giá rẻ nhất là năm hào. Thế là giá đã đắt gấp năm rồi. Mà cho
là gấp tư, gấp ba đi nữa thì cũng còn lãi chán.
Còn nếu nhà xuất bản kêu các đại lý không sòng phẳng thì nhà báo cũng
có thể kêu bị các độc giả chây lười về việc gửi măng đa.
Có thể nói phong trào xuất bản mỗi ngày một lan
rộng ở Hà Nội là do ở chiến tranh, vì chiến tranh đã gây nên nạn khan giấy...
Các nhà xuất bản thi nhau mà ùn ùn thành lập ở chốn
kinh kỳ. Cố nhiên là một nhà đông con thì thế nào cũng có nhiều chú bé thò lò mũi
xanh. Cái đất nghìn năm văn vật này cũng có những ông làm nghề xuất bản mà chẳng biết xuất bản là
thế nào.
Tôi là Philinte không phải là Ălceste. Người ta
sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật, vậy có mong người ta tự sửa
chữa làm gì. Nhưng thiết tưởng cũng nên ghi lấy đôi ba sư tức cười của nghề
xuất bản trong lúc này (48).
Có mấy nhà xuất bản tưởng rằng cái nghề của
mình bắt buộc mình phải ăn nói cho có văn vẻ và hễ mở miệng cần phải nói rặt về
văn chương, không có ít ra cũng phải về lý tưởng. Thành ra mấy ông ấy nói rặt những chuyện to tát cả. Nào “xây
dựng cho văn chương Việt Nam lấy một nền tảng vững vàng”; nào cố hết sức “hội họp
lấy những cây bút có giá trị nhất trong văn giới Việt Nam ngõ hầu mở một kỷ nguyên mới
cho văn chương và nghề xuất bản”.
Rồi rút cục như thế nào? Mây ông ấy ao ước các
nhà văn sẽ nâng đỡ nhà xuất bản trong buổi đầu bằng cách hy sinh. Và rồi
chẳng bao lâu người ta thấy mấy ông ây cho ra đời những quyển mà tác giả của nó
được gọi bằng một tên rất tân thời là: các nhà văn mới.
Các nhà văn mới này được cái cũng dễ dãi, nghĩa là họ được
thấy văn họ in thành sách, họ đã lấy làm mãn nguyện lắm rồi không
còn bụng dạ nào nghĩ đến quyền gì khác của mình nữa đối với nhà xuất bản. Họ
thật không giống Balzac một tý nào.
Nhà đại văn hào này đã nổi tiếng về sự chặt chẽ đối với quyền tác giả của
mình, và nhiều khi tiên sinh lại còn lây non nữa.
Có lẽ những ông văn sĩ mới phải lấy làm thích cái ý
tưởng này của Julien Benda:
“Đối với việc làm, tôi có một quan niệm đặc biệt.
Đã sống được ở cái việc mà tôi thích, tôi cho là tôi chẳng làm lụng gì cả.
Những người theo chủ nghĩa xã hội cho người làm việc bằng trí não vói người làm
việc bằng chân tay cùng chung một số phận, làm cho tôi phải phì cười. Trừ khi
họ tìm ra được một anh thợ đấu, hay một anh thợ nề cũng quả quyết như tôi rằng
nếu trở nên một tay triệu phú, cũng sẽ không bao giờ bỏ nghề cả.
“Tôi còn làm cho sự kiêu căng của con người trí
thức hóa tôn trọng hơn nữa. Cái sự tương đương mà kẻ có tiền đã đặt giữa việc làm của tôi với đồng tiền nó làm cho tôi
sống, tuy phần hình hài của tôi ưng thuận, nhưng phần hồn của tôi không
thể dung được. Renan có thuật lại rằng khi ông được tin mấy nhà xuất bản báo
cho ông biết ông sẽ nhận được một
số tiền về sách của ông, ông phải lấy làm ngạc nhiên sao người ta lại có thể đem tiền tài mà đo những việc ông làm (49).
Tồi rất đồng ý với Renan. Sự tương đương kia nếu tôi có cho là được, thì tôi cũng thấy nó chỉ bền trong nhất thời thôi. Tôi cho
là một sự bất công khi thấy người ta trả tôi một số tiền về một bài báo mà tôi
chỉ viết mất có
vài giờ mà lại còn lấy làm thú vị nữa - số tiền ấy, một người thợ có bốn con phải làm khổ
làm sở trong một tuần lễ mới có...”
Không những Renan và Benda, Spinoza cũng có một quan niệm như thế đối
với công việc về đường trí thức của mình. Nhưng sự thực thì dù Spinoza, hay
Renan, hay Benda, khi thấy nhà xuất bản biết
nhớ đến quyền tác giả của mình, các ông vẫn lấy làm hài lòng như Balzac, hay như những nhà văn không có những ỳ nghĩ như các
ông. Chỉ khác có một điều là các ông tuy cũng hài lòng và cũng nhận như ai,
nhưng các ông lại nói lớn cho thiên hạ biết rằng đó là “cái tôi vật chất” của
các ông thu nhận, chứ “cái tôi tinh thần” của ông vẫn ruồng rẫy như thường.
Các tư tưỏng ấy về việc làm của nhà văn chỉ có thể
coi là một tư tưỏng làm tôn trọng công việc văn chương thôi. Vì nếu xét về
việc, không xét đến những ý nghĩ khác nhau của mỗi nhà văn đôi với công việc
của mình, thì có một việc bao giờ cũng như nhau: đó là cái việc Julien Benda có thừa nhận quyền tác giả của mình
cũng như Balzac hay một nhà
văn Việt Nam nào đó thừa nhận quyền tác giả mà không có cái ý nghĩ như Benda.
Nhưng dù mấy nhà văn mới có ưa thích cái
quan niệm trên này của Julien Benda đối với công việc văn chương, sự ưa thích của các ông cũng không được bền,
vì một khi các ông thấy sách của mình bán chạy, các ông cũng phải theo như Balzac.
Tuy có những sự hỗn loại ấy, Hà Nội vẫn còn có
những nhà xuất bản tiến bước một cách vững vàng và đều đặn, lấy sự đứng đắn làm
căn bản, nên dù có bi quan đến đâu, người ta vẫn phải công nhận rằng sở dĩ Hà
Nội có thể sản xuất được nhiều sách hơn hết thảy các thành phố khác ở Đông Dương là nhờ ở công những nhà xuất
bản đứng đắn ấy (50).
Những người ở Huế, ở Sài Gòn ra chơi Hà Nội đều thán phục Hà Nội về những cửa hàng sách, tuy
những cửa hàng này đem so với mấy cửa hàng của người Tây ở đô thành chưa thấm vào đâu về cách trưng
bày.
Người ta khen: Hà Nội là một nơi mà một người thiếu
niên ham mến quốc văn rất dễ học, dễ khảo cứu, dễ tìm tòi, cho nên từ xưa đến nay, Hà Nội đã sản xuất được
nhiều văn sĩ hơn những nơi đô thị khác trên đất Việt Nam. Người ta đặt hy vọng
vào Hà Nội nhiều quá. Mà điều ấy cũng không lấy gì làm lạ khi người ta nhớ lại
rằng nếu ở nước Nam có cái thành phố nào cổ nhất vẫn còn tươi sáng dưới ánh
mặt trời thì Hà Nội phải là người anh cả (51)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét