|
GS.TS Nguyễn Đức Dân
(Trích từ cuốn Nỗi oan thì, mà là)
|
(Nguyễn Bùi Khiêm) Nghiên cứu về lịch sử báo chí Việt Nam
giai đoạn khởi thủy, có nhiều nội dung liên quan đến quá trình vận động và hoàn
thiện của ngôn ngữ báo chí nói riêng trong chỉnh thể vận động và phát triển của
ngôn ngữ nói chung. Lối văn nói được đưa vào văn phong của báo viết và từng
bước được điều chỉnh. Lối văn cộc của Hoàng Tích Chu đã bị lên án một cách gay
gắt, trong đó có vấn đề loại bỏ kiểu nói thì, là mà… Để hiểu thêm về nội dung
này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau.
Đã nhiều lần tôi được
xem lời phê vào các bài tập làm văn của học sinh, đại để như “Bài lủng củng, câu văn lắm thì,
là, mà quá!”. Phê thế đúng, nhưng thật ra cũng chỉ đúng một phần. Bởi rất nhiều trường
hợp không thể thay thì, là hoặc mà bằng một từ nào khác mà không làm câu
văn mất vẻ sinh động hoặc làm giảm hẳn nghĩa đi. Vậy cần minh oan cho chúng.
Một lầm lần khác, lần này do
chính các nhà ngôn ngữ - các nhà từ điển học, là đã gán cho chúng cái nghĩa mà
chúng không có. Chẳng hạn, trong hầu hết các từ điển Việt-Anh hoặc Việt-Pháp từ thì
thường được giái thích là để nối hai phần nhân và quá: then (A), alors (P).
Sau đó lại cho nó là từ để nối quan hệ nhượng bộ - tăng tiến, nghĩa là trái
với quan hệ nhân quả: but (A); mais (P).
Thế là thế nào? Chả lẽ một từ lại
được dùng thể hiện hai quan hệ ngược nhau đến vậy?
Bởi vậy tôi muốn được minh oan cho
mấy từ này qua những cách dùng đặc sắc, độc đáo không thay thế được của chúng. Có thế bạn
cũng sẽ thoáng thấy ở bài này một (7) khuynh hướng của ngôn ngữ học hiện
đại; nghiên cứu ngôn ngữ dưới góc độ giao tiếp: các hành vi ngôn ngữ (Speech Acts).
Năm học 1982 -1983, có một đề
luận văn tốt nghiệp cho sinh viên ngành ngôn ngữ học một trường đại học như
sau:
“Quan sát đoạn hội thoại sau:
Sinh viên A: Có mỗi từ MÀ mà
cũng làm một đề tài luận văn!
Sinh viên B: Mà nào có khó!
Sinh viên A: Hơn nữa, hay gì mà
hay!
Sinh viên C: Ấy thế mà...
Phân tích cách dùng từ MÀ trong đoạn hội thoại
trên. Tìm các đặc điểm khái quát của từ MÀ”.
Rốt cuộc, không sinh viên nào
nhận đề tài này. Giống
như mọi sự trên đời, bàn những chuyện to lớn và chung chung về đường hướng,
chiến lược hình như ai cũng có thể nói và phán được; sinh viên sẵn sàng bình
luận về “sự trong sáng của tiếng Việt”, về “đặc điểm ngôn ngữ của văn học lãng
mạn”, về “chủ ngữ, vị ngữ...” Còn khảo sát một từ cụ thể, qua một vài câu cụ thể, và
quan trọng hơn, qua cái cụ thể mà phát hiện vấn đề, khái quát lên thành cái
chung, cái bản chất thì hình như lại không quen.
Đọc đề trên, hẳn có bạn sẽ phê “Sao
mà rách việc! Cứ đặt ra những cách dùng oái oăm...”. Nhưng chắc cũng có
bạn giải thích “Nhà ngôn ngữ học mà lại!” (Lại từ MÀ)
Tôi muốn bỏ ngỏ từ MÀ để các bạn
bình luận. Chỉ xin gợi ý: các lối dùng từ mà trên đây phản ánh các hành vi ngôn (8) ngữ khác nhau, nghĩa
là trong những tình huống giao tiếp cụ thể nhất định thì phải dùng một lối nói
nhất định. Và bỏ ngỏ từ MÀ để minh họa các hành vi ngôn ngữ liên quan đến từ
THÌ.
*
Cuối những năm 60, bà A-một chuyên gia Nga,
hồi đó hầu hết gọi là bà Liên Xô - sang Việt Nam. Một hôm bà đi chợ Đồng Xuân ở
Hà Nội. Thời đó, còn ít người nước ngoài đến Hà Hội. Vả, mấy thuở chuyên gia đi
chợ, nên người hàng phố và trong chợ để ý nhiều tới bà ta. Tôi nghiệm ra rằng
hầu như phụ nữ để ý phụ nữ trước hết ở ngoại hình và cách ăn mặc.
Nghĩ rằng bà nước ngoài này không
hiểu tiếng Việt, mấy bà bún ốc riêu cua bô bô bình luận:
- Khiếp, bà Liên Xô kia xấu quá! Béo ơi là béo!
Ai dè bà Nga này quay lại đốp
luôn:
- Vâng, còn các bà thì đẹp!
Hoàn toàn bị bất ngờ, vả lại hình
thức mấy bà bún riêu nào có hơn ai, thế là dù có bản lĩnh chợ Đồng Xuân,
mấy bà cũng nín khe!
Hẳn khi học tiếng Việt, chuyên
gia nọ đã học được lối nói mỉa trong truyện dân gian:
“Con chồn chê chuột chù:
- Họ nhà mày hôi quá! (9)
Chuột chù đáp:
- Phải, còn họ nhà mày thì
thơm”
“Còn các bà thì đẹp!”, “Còn họ
nhà mày thì thơm!”, “Còn các anh thì tử tế!”... Chỉ cần nghe những câu như thế, một câu
thôi, chắng cần biết đoạn đầu ra sao, chúng ta cũng biết đó là những lời nói đay. Rõ ràng, bề ngoài là lời khen
đẹp, khen thơm, khen tử tế... nhưng người nghe biết ngay thực chất đây là lời
chửi xéo, “trả đũa” lại những lời phê phán, chê bai trước đó. Các bà chê tôi xấu, các bà
cũng chắng hơn gì! Chí cần nghe “Còn ông thì liêm khiết! là chúng ta hình
dung ngay ra tình huống sau: Trước đó có một người lên lớp chê bai người khác
hoặc một số người khác là tham nhũng, là ăn bẩn, là thiếu đạo đức cách mạng...
Người nghe không phản đối nhưng thấy chướng quá không chấp nhận cái kiểu “chó
chê mèo lắm lông” này, người nghe có thế chính là bà vợ đã hiểu rõ về ông chồng
“đạo đức” của mình, bèn đay lại bằng câu “còn ông thì liêm khiết!”.
Khái quát, phương thức nói đay
như sau: Hãy dùng một từ X trái nghĩa với điều người ta đã chê mình để “khen” lại meo mẫu:
“Còn ông/ bà thì X!” (I)
Nếu không dùng từ thì, tôi
chưa tìm được lối nói nào ngắn gọn mà vẫn diễn tả được đầy đủ tình huống và ý
nghĩa như thế. Hành vi nói đay này mang sắc thái mỉa mai sâu cay hơn lối
đối đáp trả miếng theo kiểu chất vấn trực tiếp:
“- Gớm, bà kia xấu quá!
- Còn các bà thì không!”.
Một giáo viên dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, có lần cho sinh viên đọc truyện dân gian về anh Ngốc:
“Có một anh Ngốc, vợ sai đi chợ
mua bò. Mua được 6 con. Chàng Ngốc khoái chí cưỡi lên một con và lùa đàn bò về
nhà. Tới nhà, anh Ngốc hốt hoảng vì đếm đi đếm lại chí thấy có 5 con. Người vợ ra
đón, hỏi cơ sự làm sao mà mặt mày buồn thiu vậy. Ngốc ta mếu máo:
- Mình ơi, tôi mua 6 con, giờ chỉ còn 5 con, thiếu một
con rồi!
Thấy chồng đang cưỡi bò, người vợ hiểu ngay sự
tình, rũ ra cười:
- Thôi, xuống đi, thừa
một con thì có!”
Sinh viên không hiếu cấu tạo ngữ
pháp câu cuối, vì các sách ngữ pháp xưa nay không đề cập tới cách dùng từ thì
như thế. Giải thích sao đây? Chúng ta nhìn các điếm nút trong đoạn hội thoại: Anh chồng
bảo thiếu người vợ bảo thừa, hai từ thiếu và thừa trái
nghĩa nhau. Người vợ nói theo mẫu “thừa thì có!” để bác bỏ lời khắng định thiếu
của người chồng.
Vậy mời bạn khái quát: Có một
người nói rằng A, bạn không đồng tình và muốn bác bỏ A theo cách khẳng
định B, một điều trái ngược với A. Công thức của bạn sẽ là:
‘B thì có!” (II) Thật ra, chỉ cần B khác biệt với
A là đủ. Trong tiểu thuyết Giấy trắng của Triệu Xuân có một đoạn hội thoại mà câu cuối
đúng theo mô hình này:
- Cô ấy.
- Anh thì có. Anh sẽ
chết vì em cho coi”.
*
Vậy mô hình II phản ánh hành vi ngôn ngữ sau: Khẳng định B để bác bỏ một điều A mà người
khác nói trước đấy.
*
Lại một tình huống khác. Trong Những
ngày thơ ấu, Nguyên Hồng có kể lại những trận đòn vô lí:
“Hừ! Trót dại thì cũng nằm
xuống đây”
“Con trót dại rồi! Má tha cho
con, má đừng đánh con!”. Có bạn nào hồi nhỏ không nói câu này? Nhớ lại câu này,
chúng ta thấy cách dùng từ thì trong câu trên giúp nó phản ánh được
những nội dung sau: Chú nhỏ phạm lỗi gì đó, bị bắt lỗi và sẽ bị trừng phạt. Chú nhỏ nhận lỗi “Con
trót dại” mong được tha phạt. Nhưng người nghe không chấp nhận lời nhận lỗi,
nghĩa là không “khoan hồng”, vẫn bắt nằm xuống và đánh đòn.
Chúng ta khái quát tình huống này
thành mô hình: Bạn đang có ý định thực hiện việc A thì xảy ra sự việc B. Mà sự việc B thường làm
người ta không thực hiện việc A nữa. Nhưng bạn không chấp nhận quan hệ này, vẫn
cứ thực hiện A. Vậy bạn hãy nói theo mẫu:
“B thì cũng (vẫn) A” (III)
Để minh họa, mời các bạn quan sát
các đoạn hội thoại:
(1) “- Con ơi, nhà nó nghèo lắm!
- Nghèo thì con cũng lấy. Con thương ảnh, má à”.
(2) - Đang chủ trương
tinh giảm biên chế, đấu tranh anh không sợ bị cho về hưu sớm à? (12)
- Nhưng tức lắm, vi hưu
thì cũng làm cho rõ trắng đen đã!
*
Một lần trên chuyến tầu chợ, tình
cờ tôi được nghe hai bà nói chuyện với nhau:
“- Cô ấy có chồng chưa?
- Bảo có thì cũng là có mà bảo chưa thì cũng là chưa”.
Hóa ra hai bà đang nói về một cô
gái và vụ tảo hôn, lớn lên chồng bồ đi biệt không nhòm
ngó tới... Nhưng điều quan trọng hơn, nhờ câu đáp mà tôi hiểu ra ý nghĩa của từ thì
trong kiểu câu “Đi thì đi”, “Mách thì mách”, “Phê bình thì phê bình”... Trong cách dùng
lặp lại này, từ THÌ được dùng để liên kết hai hành vi ngôn ngữ mà hành vi thứ
hai là sự chấp nhận miễn cưỡng và sẵn sàng chịu đựng của người nói. Đám bạn bè
đang đi chơi, một người đề nghị vào xem một phòng tranh gặp trên đường đi, bạn
không khoái lắm thì có thế chấp nhận theo kiểu “Vào, thì vào”. Trong câu
này, từ thì đã liên kết hai hành vi đề nghị và chấp nhân. Còn “Bảo chưa thì cũng là
chưa” có nghĩa là nếu bảo rằng cô ấy chưa chồng thì tôi cũng đồng ý, chấp nhận là chưa chồng. Ớ đây từ thì
liên kết hai hành vi bảo và chấp nhận. Đây là sự chấp nhận miễn cưỡng, vì
có nói ngược lại (bảo có) thì tôi cũng chấp nhận (là có).
*
Khái quát một lần nữa: THÌ là một
từ dùng đế liên kết.
Có thế là sự liên kết hai hành vi ngôn ngữ khác biệt
và (13) thường đối lập nhau. Ở các ngôn ngữ khác nhau, các kiểu liên kết hành vi
ngôn ngữ cũng khác nhau. Với câu “Thì có ai trái ý anh đâu!”, tiếng Pháp dùng
mais quoi, còn tiếng Anh có thể dùng certainly hoặc for sure đế liên kết: “Mais quoi, personne ne contrarie vos idées (P)”;
“For
sure, no one contradicts you (A)”.
- Có thể là sự liên kết hai
phần trong một phát ngôn, liên kết phần đề (thème) với phần thuyết (rhème).
Thường xáy ra hai phát ngôn liên tiếp nêu hai thuộc tính đối lập nhau của cùng
một người, cùng một vật. Thế là nhà từ điển học đã lầm lẫn cho rằng đó là nghĩa
của từ thì: but (A), mais (p). Hai từ điến Việt-Pháp và Việt-Anh gần đây nhất của một nhà xuất
bản có uy tín về các sách nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội đã ghi như
thế. Với câu “Người thì đẹp, nết thì xấu” được dịch là “A beautyful
person but a bad character” (A) và “Beau physiquement mais đe conduite mauvaise” (P). Dịch thế đúng, nhưng rõ ràng các tác giả đã dùng but và mais đế dịch từ NHƯNG được
lược bỏ trong câu tiếng Việt, chứ không phái đế dịch từ thì. Bởi lẽ, không cách nào dùng but hoặc mais để dịch một câu giống
hệt như thế: “(Cồ ấy thật tuyệt vời.) Người thì đẹp, nết thì ngoan”.
*
Thế là, các cách dùng rất đa dạng
của những từ hư, như THÌ, LÀ, MÀ, sẽ trở nên đơn giản và sáng súa nếu nhìn nhận, quan sát
chúng dưới góc độ các hành vi ngôn ngữ. Cũng từ đây nên phát triển hướng nghiên cứu
đối chiếu ngôn ngữ, đặc biệt cho các từ hư, dưới góc độ các hành vi ngôn ngữ (14). Nếu không, chúng ta sẽ sa vào một rừng khác biệt mà
không nhìn ra bản chất. Chẳng hạn, chi riêng với mô hình “A thì A”,
chấp nhận miễn cưỡng, khi chuyển sang tiếng Pháp ít nhất cũng tới 3 lối nói
khác nhau rồi:
- “Bạn thì bạn, hắn
cũng lừa”
Les amis, il les trompe quand même.
- “Giấy này mỏng quá
- Mỏng thì mỏng, không hề gì
Ce papier est trop mince - Mince, il lest, mais peu importe.
- “Chúng ta phải đi ngay - Đi thì đi”
-
Nous devons partir tout de suite... - Soit, partons!.
Vị trí đặc biệt của THÌ, LÀ, MÀ
trong tiếng Việt là như thế.
|
(KTNN,
số 84, 1992)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét