Khiemnguyen

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Bút chiến trên báo chí trước 1945



Trích từ Văn học Việt Nam
(1900 – 1945)


CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG TRONG
CẤC CUỘC TRANH LUẬN VĂN HỌC TRƯỚC NĂM 1945
  Cuộc đu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời kỳ 1930-1945 đã được phản ánh thành cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưỏng trong kiến trúc thượng tầng.

Chủ nghĩa thực dân kiểu cũ cũng như ch nghĩa thực dân kiểu mi luôn luôn sử dụng các thế lực phong kiến và ý thức của nó[1].
Trong khi phong trào cách mạng những năm 30 đang lên cao thì bọn quan lại phong kiến và bọn tư sản mại bản ngày càng lộ rõ bộ mặt bán nước (Tôn Thất Đàn, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Khoa Kỳ, Nguyễn Văn Tầm, Cung Đình Vận). Dương Bá Trạc, người trước kia đã đứng vào hàng ngũ đấu tranh đầu thế kỷ XX, đến nay, trước cao trào (324) Xô viết Nghệ - Tĩnh đã trở lại bản chất của giai cấp phong kiến suy tàn cấu kết với thực dân Pháp, gửi cho Reynaud một bản điu trn nhục nhã. Thái độ của Dương Bá Trạc cũng là thái độ của các tập đoàn phong kiến mới cũ trước cao trào của qun chúng công nông. Trong hàng ngũ các môn đệ của Khổng Tử cũng có sự phân hóa. Trong thi kỳ Xô viết Nghệ - Tĩnh, Ngô Tất Tố đã viết bài phê phán cái văn chương chữ Hán “bất cập”, “bất cú” của một cụ Nghè Trình nào đấy, chủ bút phn chữ Hán trên báo Thanh Nghệ Tĩnh[2] Chắc chắn đây không chỉ là câu chuyện văn chương, mà chủ yếu Ngô Tất Tố muốn tố cáo cái tư cách bi bút của nhà nho xu thời hèn hạ đó. Ngô Tất Tố cũng vạch mặt trái phong trào “bảo tn quốc túy” mà bọn thực dân lại cho dấy lên trong thời kỳ thoái trào cách mạng. “Tờ báo nọ hô hào bạn gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa buồng xó bếp, tờ báo kia cổ động dân quê nên duy trì cái thói tục ở góc điếm sân đình, lại một cuốn tạp chí nọ hàng tun đem những cặn bã ở nơi cửa Khổng sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả”. Túy là cái đặc biệt, vị tất đã hay, ví như cục thịt thừa trên mặt cũng đặc biệt đấy, có cn phải bảo tồn hay không? Cái khoa “quỳnh rượu hát hãm”, môn học “xe pháo mã tốt”... thì có gì hay mà gọi là quốc hn quốc túy? Qua các bài Mười năm nữa báo chí Bc Kỳ sẽ cổ động đến “thò lò”, quay đất”, Hỡi đồng bào Việt Nam, chúng ta nên vẽ mình cho con cái chúng ta, Ngô Tất Tố đã công kích bọn nhà báo vô lương tâm, một lũ bồi bút của thực dân đang nấp dưới chiêu bài bảo tồn quốc túy để hàng ngày công khai đu độc quần chúng.
Trong Đại chiến thế giới ln thứ hai, bọn thực dân Pháp lại dấy lên phong trào phục cổ. Nhà xuất bản Alecxandre de Rhodes tặng giải nhất cho cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, một cuốn sách chạy theo khuynh hướng phục cổ, tôn Khổng, sùng Nho của giai cấp phong kiến. Phan Khôi đề cao cuốn sách đó, “khuyên những người Annam đều phải thp hương mà đọc”. Nhưng Ngô Tất Tố cho rng tác giả đã xuyên tạc, Nho giáo đã biến thành “Trần Trọng Kim giáo”, không phải đạo giáo của Khổng Tử và tiên nho nữa”! (Phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim). Tư tưởng bảo thủ phong kiến cũng được dịp sống lại trên tạp chí Tri Tân với những “ông Nghè triều Lê”, những “ông nghè triu Nguyễn” ca nhóm Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tường Phượng.
Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) đã đặt vấn để phải phê phán “văn hóa phát xít, phong kiến”, “chống những xu hướng văn hóa bảo thủ”, thấn bí, duy tâm, chống văn hóa ngu dân và  phỉnh dân.
Giai cấp tư sản Việt Nam cũng có những hoạt động văn hóa chng phong kiến, nhưng nhìn chung họ chỉ chống lễ giáo phong kiến nhằm bênh vực chủ nghĩa cá nhân tư sản, chứ họ không ra mặt chống phong kiến trên bình diện kinh tế, chính trị. Các nhà tư sản Việt Nam vừa (325) mở xưởng, mở cửa hàng buôn bán ở các thành phố lớn, vừa cho vợ cả thu tô, cho vay nặng lãi ở nhà quê, vừa vận động cho con cái học cử nhân luật để ra làm tri huyện! Trong thời kỳ chiến tranh, kinh doanh bằng ruộng đất là chắc chắn nhất nên một số nhà tư sản đã đi vào con đường địa chủ hóa. Trương Văn Bền vừa mở xưởng xà phòng ở Sài Gòn vừa tậu 18000 mẫu Tây để bóc lột theo kiểu thu tô của nông dân. Ở Hà Nội, những hãng chủ pháo lớn như Phạm Lê Bổng, Phú Mỹ cũng đổng thời là chủ các đn đin lớn ở Ninh Bình, Sơn Tây, Phủ Quỳ. Không phải ngẫu nhiên mà Hội Khai trí tiến đức bao gồm hầu hết các quan lại, địa chủ phong kiến và khá lớn các nhà tư sản mại bản.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản là “Pháp - Việt đề huề” và chủ nghĩa quốc gia cải lương. Các báo chí tư sản như tờ Khai hóa (do Bạch Thái Bưởi, Lê Văn Phúc chủ trương), tờ Hữu Thanh của Hội Bắc Kỳ công thương đng nghiệp ái hữu (do Nguyễn Huy Hợi chủ trương), Tribune Indochinoise (do Bùi Quang Chiêu chủ trương) xin thực dân Pháp ban cho một chế độ tự trị như Canada, Úc đi với đế quốc Anh, hoặc ban cho một hiến pháp, miễn là không xâm phạm đến chủ quyn của nước Đại Pháp (như chủ trương của nhóm “lập hiến” Bùi Quang Chiêu). Hành động phản bội của Bùi Quang Chiêu rất điển hình cho thái độ chính trị của giai cấp tư sản. Thời còn du học ở Pháp, họ Bùi luôn luôn đi lại với cụ Phan Châu Trinh và viết bài công kích rượu, thuốc phiện và chính sách thuộc địa của Pháp Đông Dương. Khi Bùi Quang Chiêu về nước, có hàng vạn người ra đón ở bến Sài Gòn. Giữa tiếng hoan hô của dân chúng, họ Bùi mặc áo thụng xanh ra ngoài bộ Âu phục, th trước huyệt Phan Tây Hồ với những giọt nước mắt cá sấu: “Tây H anh ơi, em nguyện hy sinh cho chủ nghĩa Pháp - Việt đê huề!”. “Thế rồi cụ ra làm hội đng quản hạt. Thế rồi cụ nghĩ ra hai chữ “lập hiến” để lập một cái chính đảng hữu danh vô hình. Thế ri cụ lấy mấy nghìn mẫu ruộng Đồng Tháp Mười. Thế ri cụ làm đại biểu Nam Kỳ ở Thượng hội đng thuộc địa bên Pháp”. Nhân dân đến lúc tỉnh ngộ ra “mới biết cụ Bùi Quang Chiêu cũng ch là người Annam dù mà cụ vẫn mặc Tây, ăn cơm Tây, cả nhà đu nói tiếng Tây”! (Ngô Tất Tố - Nước bạc cuối cùng của cụ Bùi Quang Chiêu).
Sau cơn khủng bố trng 1930 - Ị931, sau nạn phá sản vì khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, văn chương lãng mạn của Tự Lực văn đoàn ra đời và phát triển mạnh, có lúc gần như giữ vị trí độc tôn trên đàn văn học công khai. “Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự chống đế quốc nữa, bèn chuyển ra đấu tranh bng văn hóa chống phong kiến quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay, tủ sách Tự Lực văn đoàn). Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học nghệ thuật đi đôi với phong trào “vui vẻ, trẻ trung” có tính chất trụy lạc của thanh niên trí thức, tư sản thành thị. Thực (326) dân Pháp khuyến khích những khuynh hướng đó cốt đánh lạc hướng quần chúng, nhất là qun chúng thanh niên[3].
Bước sang thời kỉ Mt trận Dân chủ, hoạt động văn hóa ca tư sản dân tộc chủ yếu 1à những hoạt động của các tổ chức mang tính cải lương (Hội Ánh sáng của nhóm Ngày nay mà Hội trưởng là Nguyễn Tường Tam, thành lập năm 1937, hội Hướng đạo sinh... - những tổ chức này được Châtel nâng đỡ). Hội Truyn bá quốc ngữ lúc bấy giờ cũng nm trong phong trào văn hóa cải lương nhưng thuộc khuynh hướng tiến bộ (do nhân dân lợi dụng khả năng hợp pháp mà hoạt động cải lương làm lợi cho mình).
Trong Đại chiến thế giới ln thứ hai, một số xí nghiệp của tư sản bị bom tàn phá, phải dãn thợ hoặc đóng cửa. Do chính sách phát xít của Pháp, Nhật, giai cấp tư sản bị chèn ép, hà hiếp hơn bao gi hết (năm 1942 và 1944 thực dân Pháp công bố nhiếu nghị định làm cho các lò làm đường của tư sản dân tộc bị đóng cửa; các lò nấu qung ở Bc Sơn cũng bị tịch thu vì lý do chiến tranh!). Nhưng bọn tư sản mại bản ôm chân Pháp, Nhật thì lại được dịp       lũng đoạn thị trường, giàu lên như thổi trong chiến tranh (Nguyễn   Thị Năm, Nguyễn Huỳnh).
Trong tình hình đó, giai cấp tư sản một phn “đã ngả v phe cách mạng, một phn do dự, còn một số ít quay ra thân Nhật” (Trưong Chính). Lúc này, những người hoạt động quốc gia cải lương, đại biểu cho giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên, đôi chút tiến bộ trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, dn dn phân hóa theo nhiều con đường.
Một bộ phận đi theo cách mạng (Đảng Dân chủ Việt Nam, 1944), một bộ phận trung lập (Tân Việt Nam hội của Vũ Đình Hòe, Đào Duy Anh, Đỗ Đức Dục, Ngô Tử Hạ...), còn một số tư sản dân tộc hợp với địa chủ phong kiến thành những đảng thân Nhật (Đại Việt dân chính của Nguyễn Tường Tam, v.v...).
Giai cấp công nhân Việt Nam đã thành lập giai cấp “tự nó ngay sau thời kỳ “khai thác ln thứ nhất” của đế quốc Pháp (trước Đại chiến thế giới ln thứ nht), nghĩa là thành hình trước giai cấp tư sản. Từ 1919 đến 1929, giai cấp công nhân đã từ giai cấp “tự nó” trở thành giai cấp “cho nó”, trở thành một lực lượng lãnh đạo cách mạng. Sách báo mác xít do anh em thủy thủ Việt Nam bí mật chuyển từ Pháp v nước đã tác động mạnh mẽ đến phong trào công nhân Nam Bộ. Tôn Đức Thắng kể lại: anh em công nhân Nam Bộ đã mướn thuyn chèo ra giữa sông Sài Gòn, sông Đng Nai, sông Cửu Long để đọc Bn án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ và mấy số đu của tờ Việt Nam hồn[4] (327).
Phong trào công nhân Nam Bộ từ chỗ tự phát rời rạc đã dn dn đi vào tổ chức, và từ 1927 phần lớn anh em công nhân giác ngộ đã gia nhập Thanh niên cách mạng đng chí hội, ri sau đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong việc truyn bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam phải kể đến công lao to lớn của trường Đại học Cộng sản của nhân dân lao động phương Đông (gọi tắt là trường Đại học phương Đông) của Quốc tế Cộng sản thành lập tại Maxcơva từ 1921.
Quốc tế Cộng sản luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo cán bộ lý luận mác xít cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1925 đến 1938, Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và cung cấp cho cách mạng Việt Nam 40 cán bộ, trong đó có một số đng chí sau này trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng như Trn Phú, Lê Hng Phong hoặc trở thành những nhà lý luận mác xít, trên báo Nhân đạo, Thư tín quốc tế, Quốc tế cộng sản như Nguyễn Khánh Toàn, những cây bút chủ lực trên báo chí của Đảng thời kỳ Mặt trận Dân chủ như Nguyễn Thế Rục, Trn Đình Long, v.v...
Sách báo mác xít vào Việt Nam qua con đường của Đảng Cộng sản Pháp. Nhờ giữ vững mối liên lạc bí mật với bên ngoài qua anh em thủy thủ Việt và Pháp, mà “thư viện” bí mật của những người tù cộng sản ở Côn Đảo có nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lênin và báo chí của Đảng Cộng sản Pháp. Trong banh 2 của nhà tù này, năm 1933, Ngô Gia Tự, Hà Huy Giáp đã dịch Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì? Bệnh ấu trĩ “tả khuynhtrong phong trào cộng sản, Hai sách lược, Nguyên lý chủ nghĩa Lênin, Chống Đuyrinh, v.v... (Thư viện Côn Đảo cũng có những sách triết lý tư sản của Auguste Comte, Kant, Bergson...).
Sách báo mác xít vào Việt Nam nhiu nhất là trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Ln đầu tiên, báo chí của Đảng công khai tuyên truyền chủ nghĩa Marx - Lênin và đường lối chính trị của Đảng. Đây cũng là lần đầu tiên diễn ra cuộc giao phong công khai giữa hệ tư tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản và phong kiến trên mọi lĩnh vực của đời sống tinh thn.
Cuộc đấu tranh về mặt ý thức hệ trên lĩnh vực báo chí công khai không phải lúc nào cũng rõ ràng. Trong điu kiện ngặt nghèo ở một nước thuộc địa, các nhà văn tiến bộ đôi khi phải khéo léo sử dụng những điu kiện ấn loát của các nhà xut bản và báo chí hợp pháp tìm mọi cách nói lên tiếng nói của văn học yêu nước và cách mạng. Những “sự kết hợp trái tự nhiên này”, những sự “liên hợp kỳ quái”, những sự “chung sống” không bình thường, những “sự che đậy giả tạo” theo Lênin là không thể tránh được trong một hoàn cảnh mà có lúc “toàn bộ sách báo bất hợp pháp đều là sách báo Đảng” và “toàn bộ sách báo hợp pháp đu là sách báo phi Đảng vì tính đảng bị cấm chỉ[5] (328).
Cho nên cuối năm 1933, ta thy những bài báo có khuynh hướng mác xít của Hải Triu lại đăng trên tờ Đông Phương là một tờ báo của tên thực dân Lavallé và những chủ bút không tiến bộ như Nguyễn Quốc Túy, Trần Tấn Thọ, Lan Khai. Học Phi cũng có đăng truyện trên tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn Giang và năm 1944 Đặng Thai Mai cho in Văn học khái luận Nhà xuât bản Hàn Thuyên, nơi tập trung khá nhiu cây bút có khuynh hướng trốtkít.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ đã được phản ánh trên diễn đàn báo chí xut bản công khai qua các cuộc tranh luận sau đây: cuộc tranh luận duy tâm, duy vật (1933) giữa Hải Triều và Phan Khôi, cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” (1935-1939) giữa Hải Triều, Hải Khách, Hải Thanh, Bùi Công Trừng với Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều; một cuộc tranh luận nhỏ năm 1937 xung quanh cuốn Ở Liên Xồ về của André Gide giữa Hải Triều, Hải Thanh với báo chí tư sản (trong đó có tờ Ngày nay) và một cuộc đấu tranh chống những hoạt động phá hoại và sách báo xuyên tạc chủ nghĩa Mác của bọn trốtkít (1937-1944).
Cuộc tranh luận về duy tâm và duy vật nổ ra từ những bài báo của Phan Khôi: Văn minh vật cht và văn minh tinh thần (Phụ nữ thời đàm, 8-8-1933), Nguyên lý và hiện tượng (Phụ nữ thời đàm, 12-11-1933), Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (Phụ nữ tân văn, 29-11-1934). Hải Triều (vừa ra khỏi nhà tù đế quốc Pháp tháng 7-1932) cùng với một số đng chí khác đã lên tiếng phê phán các luận điểm duy tâm phản động của Phan Khôi trong hàng loạt bài báo: ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật (Đông Phương, 20-10-1933), Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm (Phụ nữ tân tiến, số 1 năm 1934), Trên lịch sử nước ta vẫn có chế độ phong kiến (Công luận, 2-1-1935), Vật chất và tinh thần (Thành Lâm - Đông Phương, 8-11-1933). Qua cuộc tranh luận, Hải Triều đã bước đầu giới thiệu được một số nét v chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cuộc bút chiến diễn ra dưới hình thức một cuộc tranh luận v học thuật. Nhưng đng sau ý nghĩa triết học, ta còn thấy ý nghía chính trị: cuộc đấu tranh công khai của tư tưởng nô lệ, phản động của Phan Khôi. Tư tưởng nô lệ, đầu hàng của Phan Khôi lúc đó kết hợp với tư tưởng bi quan thất bại của những bộ phận tư sản, tiểu tư sản trí thức trong thời kỳ thoái trào cách mạng.
Năm 1936, Hổ Xanh (Nguyễn Thượng Cát) viết bài Cuốn “Duy tâm hay duy vậtvi nhà duy vật Hải Triều chào mừng thắng lợi vẻ vang của một “kiện tướng” trẻ tuổi và “hùng dũng” đã “lanh lẹ” cm lá cờ của chủ nghĩa duy vật trên thành lũy của lão tướng già Phan Khôi. Cuộc bút chiến theo ông, đã “bắt đầu rung động tâm hn một số đông bạn thiếu niên ta đang bị một mớ cặn bã học thuyết và văn chương lấp đặc mạch máu” (Tiến bộ, số 2, ngày 16-2-1936) (329).
Tháng 1-1935, Hải Triu kết thúc cuộc tranh luận duy vật, duy tâm thì đến tháng 2-1935, người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa của Đảng lại mở đu một cuộc tranh luận mới quyết liệt hơn: nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”. Sau trận mở màn giữa Hải Triu với Thiếu Sơn, cuộc tranh luận về quan điểm nghệ thuật thực sự bắt đầu khi Hải Triều và Hoài Thanh phát biểu ý kiến xung quanh cuốn Kép Tư Bn của Nguyễn Công Hoan. Cuộc tranh luận ít nhiều có quy mô toàn quốc này kéo dài suốt thời kỳ Mặt trận Dân chủ và thu hút khá đông các nhà văn, các nhà phê bình văn học tham gia. Đây là cuộc giao phong đầu tiên giữa quan điểm nghệ thuật vô sản và quan điểm nghệ thuật tư sản xung quanh những vấn đ lý luận cơ bản: mối quan hệ giữa văn học và chính trị, văn học và đời sng xã hội, vấn đ tự do của văn nghệ sĩ, tính giai cấp của văn học, giá trị lâu dài của tác phẩm nghệ thuật và điển hình nghệ thuật. Nguyên nhân sâu xa gây nên sự đối lập v quan điểm nghệ thuật là sự xung đột v tư tưởng chính trị của hai tầng lớp thanh niên bị phân hóa mạnh mẽ sau cuộc khủng bố trng 1930-1931.
Sự chiến thắng của phe “nghệ thuật vị nhân sinh” chính là ưu thế của tư tưởng vô sản, tư tưởng cách mạng đối với những quan điểm nghệ thuật duy tâm tư sản và tư tưởng thoát ly đấu tranh chính trị. Cuộc tranh luận đã bước đầu đẩy lùi được ảnh hưởng của văn học lãng mạn tiêu cực, vẩn vơ và gây tác dụng cổ vũ đối với văn học hiện thực phê phán.
Hải Triều cũng bước đầu giới thiệu được một số luận điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên nhóm “nghệ thuật vị nhân sinh” cũng có những thiếu sót, những ấu trĩ buổi đầu trong sách lược đấu tranh. Một số vấn đề lý luận còn chưa được lý giải thỏa đáng như mối quan hệ giữa nhân tính và giai cấp tính, giá trị lâu dài của những tác phẩm và điển hình văn học qua các thế kỷ, mối quan hệ giữa tính tư tưởng và tính nghệ thuật, nội dung và hình thức, v.v...
Năm 1937 cũng có một cuộc tranh luận nhỏ xung quanh cuốn Retour de I’URSS (Ở Liên Xô v) của André Gide. Quan điểm nghệ thuật tư sản, ch nghĩa cá nhân cực đoan cũng như thuyết vô luân của André Gide đã có ảnh hưởng sâu sc đến Hoài Thanh, Lưu Trong Lư và nhóm Tự Lực văn đoàn. Tháng 1-1937, báo Ngày nay giới thiệu cuốn sách của André Gide trích dẫn một số đoạn kèm theo lời bình luận tán thưởng của các báo chí tư sản như Nouvelles littéraires, Intransigeant, Gringoire, Populaire. Thái độ đó của nhóm Tự Lực văn đoàn bị dư luận tiến bộ phản đối. Hải Thanh dịch một bài André Gide và Liên Xô công kích André Gide, Giao Đài dịch bài Vì lẽ gì mà Gide phản đảng đăng trên tờ Sự thật ở Liên Xô, tờ báo Le canard enchainé (Vịt buộc cổ) có bài Pháp v nhại lại bài Ở Liên Xô v của André Gide. Năm 1937 Hải Triều cũng cho xuất bản cuốn Trả lời cho André Gide, phê phán nhà văn tư sản Pháp, người được nhóm “nghệ thuật vị nghệ thuật” coi như một chỗ dựa v mặt lý luận. Lý lun của nhóm (330) “nghệ thuật vị nghệ thuật ở nước ta là một bức tranh nhiu màu sc: một nét nhạt của Hugo trong bài tựa Lá thu, một vài nét đậm hơn cửa André Gide, Théophile Gautier hòa hợp với một vài màu sác “dân tộc của bán thân họ. Cuộc tranh luận xung quanh cuốn Liên Xô v ca André Gide chỉ là một cuộc tranh luận nhỏ, gn như là một bộ phận của cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật hay “nghệ thuật vị nhân sinh. Nó nghiêng v những vn đ chính trị hơn là những vn đ lý lun và nghệ thuật.
Năm 1930, chúng ta đã nm được một ngọn cờ hng trên lĩnh vực chính trị với sự thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thời kỳ Mật trận Dân ch, Hải Triều và các đng chí ca mình giành được chiến thắng vẻ vang qua hai cuộc tranh luân. Tuy nhiên cn phải thy rằng ý thức hệ thống trị của thời đại là ý thức hệ của giai cp thống trị. Nhng cuộc đu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ giữa tư tưởng vô sản, tư tưdng yêu nước với tư tưởng thực dân, tư tưng tư sản và phong kiến vẫn kéo dài suốt những năm trước 1945 và cả v sau nữa, tuy hình thái biu hiện của nó mỗi lúc một khác.
Trước 1945, những tư tưởng duy tâm, phản động xuất hiện dưới hình thái thun túy, hn nhiên và ngây thơ của nó. Phan Khôi thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm không đời nào lại nói câu dại dột sau đây: Người ta nói tinh thn sinh ra vật cht mà ông cũng dám cho rằng chưa thoát cái quan niệm duy tâm?”. Trong những năm đu kháng chiến chống thực dân Pháp, những người còn bênh vực quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” khi đối lập người công tác với người sáng tác, nghệ thuật với tuyên truyền, không dại gì láp lại nguyên xi câu nói hn nhiên của Hoài Thanh: “Một bài văn là một bông hoa. Làm sao người ta lại cứ ép bông hoa phải thành quả là nghĩa lý gì?. Tư tưởng tư sản duy tâm trong văn học nghệ thuật càng v sau càng xuất hiện một cách tinh vi, phức tạp hơn. Khi chính quyn đã về tay nhân dân, khi tư tưng vô sản đã thành hệ tư tưng chính thống, chúng thường phải trá hình bằng cách khoác một nước sơn mác xít giả hiệu. Không phải đợi Cách mạng tháng Tám thành công, ngay trong thời kỳ Mặt trận Việt Minh, nhóm trốtkít Hàn Thuyên, Trương Tửu, Nguyễn Tế Mỹ...) đã bắt đu xuyên tạc duy vật biện chứng và duy vật lịch sử./.


[1] Theo Nn giám văn nghệ sĩHiệp hội Văn hóa Việt Nam do Ph Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xut bản Sài Gòn năm 1970 thì Tng hội Khng học Việt Nam do tổng thống Việt Nam Cộng hòa làm hội trưởng có đến 20150 hội viên, còn Tng hội Việt Nam cổ học mà ban sáng lập toàn là quan lại phong kiến cũ thì có chi nhánh hầu khắp các tỉnh.

[2] Thục Điểu. Cụ Nghè Trình và thầy đ trong truyện c tích, Đông Phương, 1931.
[3] Trương Chính. Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (in ln th hai), NXB Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.54, 35.
[4] Báo Thống nhất, số 155, ra ngày 19-5-1960.
[5] Lênin bàn v văn hóa, văn học, NXB Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 72, 73.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét