Năm 1942, mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, khi viết bài tổng kết về “Một thời đại trong
thi ca”, Hoài Thanh đã “cung chiêu anh hồn Tản Đà” về “chứng giám công việc lớp người kế tiếp” và mấy chục năm sau,
năm 1983, Xuân Diệu thừa nhận “Sau khi đã viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá
Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn, nghiền ngẫm tất cả trong khooảng 25 năm, hôm nay tôi mới viết về tác giả quá cố khó nhất so
với tám tác giả trước kia, là Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu”. Hai hiện tượng đó đủ nói lên vị trí kiệt xuất không thể thay thế
của Tản Đà trong nền thi ca Việt Nam nhưng đồng thời cũng phản ánh tất cả
tính phức tạp của di sản văn chương cũng như chính bản thân con người Tản Đà.
Không thể phủ nhận, Tản Đà là con người của buổi giao thời. Ông thuộc thế hệ cuối cùng cửa
nền khoa cử Hán học Việt Nam (ông kém Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thức
Kháng... khoảng một hai chục tuổi) và mất - một cách cô độc - khi mà Thơ mới
vừa mới lên ngôi.
Thấm đẫm nền văn hoá truyền thống, Tản Đà thông
thạo văn thơ phú lục, văn chương chữ Hán, thông thạo cả từ khúc Trung Quốc, am
tường và điêu luyện ca trù, thơ song thất lục bát, lục bát, ca lý truyền thổng. Ông
soạn và soạn thành công một số vở tuồng, chèo nhưng đồng thời cũng là một trong số những nhà văn đầu tiên thể nghiệm viết
tiểu thuyết, văn xuôi nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ, là người đỡ đầu tích cực
cho những nhà văn trẻ đương thời. Ở ông, mang cả dáng dấp của những phong lưu tài tử một thời, người bảo vệ danh giáo luân lý truyền thống lẫn những nét cách tân, hiện đại hoá vô cùng táo bạo.
Bởi thế nên Hoài Thanh đã phải thốt lên “Tiên sinh gần chúng tôi lắm” và với
một con người và một di sản văn học như vậy thì sự phồn tạp của những công trình
nghiên cứu về Tản Đà là lẽ đương nhiên. Điều đó, một mặt, cho phép đối tượng
nghiên cứu sẽ được tiếp cận một cách sâu sắc và đa chiều nhưng đồng thời cũng dễ làm lạc lối những ai mới bước đầu tìm hiểu di sản văn học của Tản Đà.
Ý thức được điều đó, chúng tôi xin bước đầu hệ
thống những ý kiến, những “lời bình” xung quanh một bộ phận quan trọng - nếu
không muốn nói là quan trọng nhất - làm nên di sản văn học Tản Đà: thi ca. Ở đây, khái niệm “lời
bình” được chúng tôi sử dụng với một trường nghĩa rộng nhất bao hàm cả những
thưởng ngoạn thẩm mỹ cá nhân đối với thơ Tản Đà lẫn những định hướng lý luận để tiếp cận với thơ ca của ông
từ những giác độ khác nhau…
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu sinh năm 1884
tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì - Hà
Tây). Thân sinh ra ông - cụ Nguyễn Danh Kế - vốn xuất thân từ một dòng họ khoa
bảng quý tộc lâu đời - gốc ở làng Lủ (xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì). Dòng họ
Nguyễn của ông Kế từng có nhiều người đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê. Khi
Gia Long lên ngôi, dòng họ này có lời nguyền không đi thi, không ra
làm quan với tân triều. Đến thời cụ Nguyễn Danh Kế, gia cảnh họ Nguyễn đã sa
sút nhiều, người ta thường nhắc chuyên ông Kế có thời phải gánh đất nuôi mẹ
già. Có lẽ vì bần hàn nên cụ Nguyễn Danh Kế đã phá lời nguyền cũ, ra ứng thí,
đỗ cử nhân và làm quan. Vốn là người phong lưu tài tử, cụ Nguyễn Danh Kế thường
lui tới chốn bình khang và tại đây, ông đã quen và lấy bà Nhữ Thị Nghiêm, một
đào nương ở phố Hàng Thao - Nam Định. Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu là con út trong số bốn người con của
ông Kế và bà Nghiêm. Trước khi lấy bà Nghiêm, ông Nguyễn Danh Kế đã từng
có hai người vợ. Dòng máu tài hoa và tính cách phong lưu tài tử của Tản Đà có
lẽ cũng được thừa hưởng một phần lớn từ cha và mẹ.
Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi, cụ Nguyễn Danh Kế
từ trần và chỉ một năm sau bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ nhà trở lại nghề đào nương.
Nguyễn Khắc Hiếu cùng ba anh chị em về sống và chịu sự cưu mang của Nguyễn Tái Tích -
người anh cùng cha khác mẹ con thứ ba mẹ cả nhà thơ - người mà Nguyễn Khắc Hiếu
vừa coi là anh, vừa là cha, là thầy (ông Tích hơn thi sĩ ba mươi lăm
tuổi). Sinh năm 1864, nối nghiệp cha Nguyễn Tái Tích cũng phá lờỉ nguyền cũ của dòng họ,
theo đòi cử nghiệp và ra làm quan. Ông là người mà Nguyễn Khắc Hiếu hàm ơn sâu
sắc và chịu nhiều ảnh hưởng. Vốn là người nghiêm khắc, nền nếp, tính tình
chính trực thanh liêm nên hoạn lộ của Nguyễn Tái Tích cũng không ít gian truân.
Suốt cả thời thơ ấu lẫn tuổi thanh niên (tận năm hai tư, hai lăm
tuổi), Nguyễn Khắc Hiếu sống cùng với anh một cuộc đời xê dịch gắn với những địa phương mà
ông Tích được bổ nhiệm, khi Yên Mô - Ninh Bình, khi Vụ Bản - Nam Định, khi Quảng Oai - Sơn Tây, khi Vĩnh Tường - Vĩnh Yên.
Sớm nhận thấy những ánh sáng tài năng trong người
em cùng cha khác mẹ, Nguyễn Tái Tích hướng em vào con đường cử nghiệp.
Hiển nhiên, đó cũng là một nền học vấn đậm dấu ấn
của buổi giao thời. Sau này, trong hổi ký tự truyện “Giấc mộng lớn” Tản Đà có nhớ lại từ thuở lên năm “... đi học con phải có người cõng, về nhà chỉ thích chơi
chuồn chuồn…”, khi học ấu học ngũ ngôn thi, nhà thơ đã thích nhất mấy câu “hoa cù hồng phấn
nữ, tranh khán lục y lang” và “cái bệnh đa tình bắt đầu từ đấy, cái lòng mê
khoa cử bắt đầu từ đấy”. Nếu hình dung lại cuộc đời đi học của Tản Đà theo
những gì ông nhớ lại trong một bài thơ hồi ký thì năm 5 tuổi ông đã bắt đầu học
Tam tự kinh, ấn học ngũ ngôn thi, Dương tiết; 6 tuổi học Luận
ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ; 10 tuổi tập làm câu đối; 11 tuổi làm thơ
và đến năm 14 tuổi thì đã thạo “văn đủ lối”. Năm 1903, Nguyễn Khắc Hiếu 19
tuổi, theo anh lúc đó mớí được phục chức sống ở
Quảng Oai và nổi tiếng tại đấy là “thần đồng” và năm 1909 Nguyễn Khắc Hiếu vào học trường Quy
thức - một trường học thực nghiệm chương trình cải cách giáo dục do thực dân Pháp mở tại Hà Nội.
Có thể tóm gọn thời niên thiếu và những năm đầu tuổi thanh niên của
Tản Đà vào việc dùi mài thánh kinh hiền truyện, văn thơ phú lục mong thành đạt
mộng công danh. Trong quãng thời gian này cũng có mấy sự kiện để lại
nhiều dấu ấn trong tâm hồn Nguyễn Khắc Hiếu.
Đó là việc năm ông 13 tuổi, người chị ruột của ông theo mẹ làm nghề đào hát. Năm 19 tuổi, Nguyễn
Khắc Hiếu đem lòng yêu con gái nhà tư sản Đỗ Thận và đến năm
sau, ông lại có “cảm tình riêng” với con gái một người tri huyện ở Vĩnh Tường - Vĩnh Yên,
nơi Nguyễn Tái Tích làm giáo thụ.
Năm 1909, Nguyễn Khắc Hiếu đi thi
Hương lần đầu tiên ở Nam Định. Hỏng thi, ông về sống với anh ở Vĩnh Tường và ba năm sau lại tiếp tục ra ứng
thí. Năm 1912, đầu năm Nguyễn Khắc Hiếu thi trượt kỳ Hậu bổ và cuối năm thi
Hương lại không thành. 25 tuổi cuộc đời Nguyễn Khắc Hiếu chuyển sang một bước
ngoặt mới, công danh dang dở, chuyện tình duyên (với con gái nhà Đỗ Thận) không
thành, Nguyễn Khắc Hiếu trở nên tâm thần điên loạn. Ông vào dãy Hương Sơn, lên
núi Chùa Tiên, ngày đốt đuốc đi tìm Hồ quỷ, đêm rằm làm văn tế Chiêu Quân. Mùa
hè ông về sống với anh rể - nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế - ở Nam Định làm quen với nhà tư sản dân
tộc Bạch Thái Bưởi, đọc Tân thư, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi...
Cuối hạ, ông về ấp Cố Đằng của Nguyễn Thiện Kế “cái bụng chán, đời đến cưc
điểm, quyết mong tịch cốc để từ trần” (Giấc mộng lớn) trong sáu tháng. Năm 1915, Nguyễn Khắc Hiếu lập gia đình
với bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri huyện ở
Hà Đông. Cũng trong năm này ông bắt đầu có bài in trên Đông
Dương tạp chí vội mục Một lối văn nôm. Một năm sau, Nguyễn Tái Tích qua đời, Nguyễn Khắc Hiếu về sống tại
Vĩnh Phú, tiếp tục viết cho Đông Dương tạp chí, bắt
đầu lấy tự hiệu Tản Đà. Trong năm này, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà Khối tình con I (thơ) được xuất bản.
Đây cũng là thời gian ông viết Giấc mộng con I (sẽ được in năm 1917) và mấy vở tuồng Người
cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn vào năm sau ở Hải Phòng). Năm 1917, Nam Phong tạp chí ra đời, Tản Đà xuất hiện trên tờ
tap chí này ngay từ số đầu tiên. Và cung trên Nam Phong tạp chỉ, năm 1918 Phạm Quỳnh viết bài đả kích Giấc
mọng con I . Từ đấy Tản Đà bắt đầu trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài báo cùa Phạm
Quỳnh, Tản Đà thôi không cộng tác với Nam Phong tạp chí. Liền trong hai
năm, Tản Đà xuất bản một loạt truyện: Thần
tiền, Đàn bà Tàu (1919), sách giáo khoa, giáo huấn luân lý: Đài
gương, Lên sáu (1919), Lên tâm (1920); và thơ Cồn chơi
(1921). Cũng trong mấy năm này Tản Đà làm quen với nhà tư sản Bùi Huy Tín, du lịch khắp Bắc, Trung
Kỳ và làm chủ bút tờ Hữu
thanh tạp chí một thời gian.
Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà tu thư
cục) nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Đây là nơi xuất bản một loạt tác
phẩm quan trọng của ông. Về văn xuôi có mấy tập: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi,
trong đó có truyện và thơ Thề non nước) (1922); Truyện thế gian I và II (1922), Trần
ai tri kỷ (1924); Quốc sử huấn nông (1924) và tập Thơ Tản Đà
(1925) , không những thế, Tản Đà thư điếm còn là nơi ông xuất bản sách dịch
của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 1926, Tản Đà 38 tuổi, An Nam tạp chí,
tờ báo mà ông dành nhiều tâm huyết nhất ra số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng
Lọng, An Nam tạp chí có số phận
long đong không kém số phận của người chủ xướng: xuất bản và đình bản tới
sáu lần. Xen kẽ giữa
thời gian làm An Nam tạp chí, Tản Đà đi du lịch khắp ba kỳ:
khi lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh Bình, khi vào Trung kỳ thăm Phan Bội Châu, đi
Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống
với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Những chuyến đi của Tản Đà lúc để giải
sầu, lúc để chạy nợ, tìm “Mạnh Thường Quân” tài trợ cho tờ báo. Năm 1931 - 1932 Tản Đà luận chiến
với Phan Khôi về luân lý truyền thống và Nho giáo. Ông đi vào lịch sử với việc kết án Phan Khôi mấy
tội “vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong hóa” và đòi đem ông
này ra phạt roi ở trước Văn Miếu. Trong thời gian này, ông tiếp tục viết văn. Mấy tập Nhàn tưởng
(bút ký triết học), Giấc mộng lớn (tự truyện) (1929); Khối tình con III (in thơ cũ); Thề non nước
(truyện); Giấc mộng con II (truyện) lần
lượt ra đời. Đến 1933 An Nam tạp chí chính thức đình bản.
Sau khi An Nam tạp chí đình bản, cuộc đời
Tản Đà bắt trở về chiều. Ông làm trợ bút cho mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ
bảy, Ích hữu (của Vũ Đình Long), Văn học tạp chí (của Dương Tự Quán)... Năm
1934, Tản Đà tranh luận về thơ cũ - thơ mới với các nhà thơ trẻ. Lưu Trọng Lư
gửi hai bức thư lên Khê Thượng cho Tản Đà bảo vệ thơ mới. Ông ngày càng trở nên
cô độc với thời cuộc. Nhiều tâm sức
được ông dành cho việc dịch thơ Đường cho từ Ngày nay của anh em họ Nguyễn Tường và dịch Liêu Trai chí dị cho nhà Tân Dân (của Vũ Đình Long)
(được in thành sách vào năm
1937), công việc này chủ yếu để kiếm sống độ nhật, nuôi gia đình. Nhiều cuốn sách
ông viết trong giai đoạn này phải đến sau khi ông mất mới được xuất bản (như
cuốn Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện in năm 1940), hoặc thất lạc bản thảo (như
cuốn Thời hiên thì tập, Khổng Tử lược trưyện).
Ngày 7/6/1939, Tản Đà mất, nợ nần chồng chất, cô độc trong
nghèo nàn để lại một “đoàn thê tử yếu và đuối” tại một căn nhà ở đường Cầu Mới - Ngã Tư sở, Hà Nội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét