Khiemnguyen

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Một số thuật ngữ Văn học (1)


1. Ảnh hưởng  văn học

12. Ký

2.  Bút danh
13. Ngôn ngữ nhân vật

3. Bút ký
14. Nội dung và hình thức

4. Bút pháp
15. Phong cách

5. Ca dao
16. Tản văn

6.  Cấu trúc của tác phẩm

17. Tạp văn

7. Cấu tứ
18. Thể loại văn học

8. Châm ngôn

19. Thể loại văn học sử

9. Châm biếm

20. Văn  chính luận

10. Hài hước

21. Văn chương

11. Bố cục
22. Văn tiểu phẩm
                 

1. Ảnh hưởng văn học  (tiếng Pháp: influence)
Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải là đã ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Sự vay mượn cốt truyện, sử dụng tư liệu, ngôn ngữ cũng chưa phải là ảnh hưởng. Ảnh hưởng văn học chỉ xảy ra trong điều kiện có tiếp nhận và sáng tạo và chủ yếu thể hiện trên phương diện sáng tạo, làm ra tác phẩm mới, là cái tác động đem lại sự phong phú hay biến đổi về quan điểm thẩm mĩ hay cách tư duy nghệ thuật mà truyền thống văn học dân tộc của nhà văn không có, hoặc sự phát triển tự nhiên của tài năng nhà văn không dẫn đến. Chẳng hạn, ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp đã góp phần tạo thành những sáng tác thơ mới 1932 - 1945 Việt Nam.
Ảnh hưởng văn học là một quá trình, có thể tác động tới các khâu khác nhau trong quá trình ảnh hưởng như gợi ý, thúc đẩy, làm cho giống, tiêu hoá biến dạng, thay đổi biểu hiện nghệ thuật... ảnh hưởng văn học diễn ra toàn diện, có ảnh hưởng văn học giới hạn trong từng khâu. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có ảnh hưởng tới việc xuất hiện ý đồ tự sự của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nhưng không hoàn toàn ảnh hưởng tới quan niệm con người của Nguyễn Du.
Ảnh hưởng văn học có thể xảy ra trên những quy mô, trong những phạm vi khác nhau. Một giai đoạn hơặc một thời đại văn học có thể ảnh hưởng tới sáng tác ca nhà văn thuộc nhiều giai đoạn, nhiu thời đại khác. Chẳng hạn văn học cổ đại Hi Lạp - La Mã từng ảnh hưởng sâu sắc tới văn học Phục hưng và hàng trăm năm sau lại có ảnh hưởng sâu sắc tới văn học cổ điển ở châu Âu. Sáng tác của một nhà văn thiên tài cũng có thể ảnh hưởng tới sáng tác ca nhiều thế hệ nhà văn nối tiếp nhau. Nguyn Du trong văn học Việt Nam, Puskin trong văn học Nga, Gớt trong văn học Đức là những ví dụ tiêu biểu. Các trào lưu, khuynh hướng, trường phái văn học cũng có thể ảnh hưởng qua lại vi nhau.
Có loại ảnh hưởng văn học thuần tuý mang tính chất cá nhân: ảnh hưởng qua lại giữa nhà văn này với nhà văn khác. Có loại ảnh hưởng văn học giới hạn trong nội bộ văn học của một dân tộc. Có loại ảnh hưởng văn học mở rộng trong phạm vi một vùng, một khu vực văn học của nhiều dân tộc quan hệ gần gũi với nhau. Cuối cùng là những ảnh hưởng văn học mang quy mô toàn thế giới. Giao lưu văn hoá và sự tương đồng lịch sử là những nhân tố quan trọng bậc nhất để tạo ra những ảnh hưởng qua lại giũa các khu vực, các nền văn học của nhiều dân tộc khác nhau trong tiến trình chung của văn học nhân loại.
2. Bút danh
Tên tác giả được dùng để công bố các tác phẩm thay thế tên thật. Chẳng hạn, Chế Lan Viên là bút danh của Phan Ngọc Hoan, Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Tri, Tố Hữu là bút danh của Nguyễn Kim Thành... Sử dụng bút danh là hiện tượng phổ biến trong văn học toàn thế giới thuộc mọi thời đại, đặc biệt là ở phương Đông.
Có rất nhiều kiểu đặt bút danh. Có bút danh chỉ là những chữ cái, có bút danh được đặt theo chữ lót và tên thật của nhà văn, như Huy Thông (Phạm Huy Thông), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), Huy Cận (Cù Huy Cận), Tế Hanh (Trần Tế Hanh),... Lại có người lấy chữ lót và họ thật làm bút danh như Nguyễn Bính (Nguyễn Bính Thuyết). Bút danh Thế Lữ do chữ lót và tên thật của nhà thơ nói lái lại vi nhau mà thành (Nguyễn Thứ Lễ). Nhiều nhà văn dùng các bút danh mang ý nghĩa tượng trưng nhằm làm cho người đọc chú ý đến một đặc điểm tính cách nào đó hoặc ý đồ sáng tác của mình, chẳng hạn Tú Mỡ, Thợ Rèn... lại có những nhà văn vừa kí bút danh vừa kí tên thật.
3. Bút kí
Thể loại thuộc loại hình thường có quy mô tương ứng với truyện ngắn*. Bút kí khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút kí không sử dụng hư cấu* vào việc phản ánh hiện thực.
Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm khám phá ra những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mi mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Nói cách khác, giá trị hàng đầu của bút kí là giá trị nhận thức.
Bút kí có thể thuộc về văn học*, cũng có thể thuộc về báo chí tuỳ theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng.
Bút kí có thể thiên về khái quát các hiện tượng đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại trên, tác giả chú ý nhiều đến việc điển hình hoá những tính cách* bằng nhiều biện pháp nghệ thuật như xây dựng cốt truyện* (tuy không chặt chẽ như trong truyện ngắn, nhất là không có xung đột duy nhất), sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình... thì thường bút kí chính luận thường nổi lên những hiện tượng của đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt được cái thực chất bên trong ca chúng để mô tả nó một cách chính xác, sinh động, có kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của nhân vật, phân tích, đánh giá cuộc sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị luận, châm biếm, hài hước thường được sử dụng nhiều hơn.
4. Bút pháp (tiếng Pháp: écriture)
Ở phương Đông bút pháp vốn là thuật ngữ của thư pháp – ngh thuật viết chữ Nho, chỉ cách cầm bút lông, cách đưa đẩy nét bút để tạo dáng nét chữ đẹp. Chẳng hạn: “Khen rằng bút pháp đã tinh” (Truyện Kiều).
Trong văn học, bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Ở đây bút pháp cũng tức là cách viết, lối viết. Người ta thường nói: bút pháp trào lộng, bút pháp trữ tình, bút pháp cổ kính... là do sử dụng các biện pháp trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách diễn đạt cổ mà nên. Ví dụ: “Bút pháp sở trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong truyện và kí là châm biếm” (Phạm Huy Thông); Trong thơ trữ tình, Bác thường dùng bút pháp hiện thực và bút pháp tượng trưng (Nguyễn Đăng Mạnh).
Khái niệm bút pháp do trực tiếp gấn với cách viết, lối viết, nên có phần tương đng với khái niệm phong cách, văn phong. Bởi chữ phong cách trong tiếng Hi Lạp, La-tinh lúc đầu cũng có nghĩa là “cây bút”, sau mở rộng thành “chữ viết”, “cách viết”. Tuy nhiên nội dung khái niệm phong cách nay được hiểu rộng hơn, có tính h thống hơn, còn bút pháp thường chỉ yếu tố của phong cách.
5. Ca dao (tiếng Pháp: chanson populaire)
Còn gọi là phong dao.
Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu.
Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Do tác động của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, ca dao đã dần dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ dân gian truyền thống. Ví dụ câu ca dao:
Làm trai quyết chí tu thân
 Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo
Hai câu này vốn được rút ra từ bài dân ca hát cách với những tiếng đệm, tiếng láy tiếng đưa hơi như sau:
Làm trai quyết chí (mà) tu (ý) thân. Công danh (là công danh) chớ vội (chứ đã) nợ nần (mà nợ nần) chớ lo (ý y y ý y)...
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) trên sách báo nước ta đã xuất hiện danh từ ca dao mới để phân biệt ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền).
Ca dao mới khác với ca dao cổ về khá nhiều phương diện (về thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương thức và phương tiện lưu truyền, phổ biến...). Ngoài phương thức sáng tác và lưu truyền bằng miệng của nhân dân, ca dao mới còn được sáng tác và phổ biến bng văn tự của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư. Những tập ca dao thành văn được xuất bản trong mấy chục năm qua (như ca dao kháng chiến, ca dao chống Mĩ, ca dao chống hạn,...) thiên về tuyên truyền chính trị là một hiện tượng mới chưa từng có trong lịch sử ca dao trước Cách mạng tháng Tám (1945).
Dựa vào chức năng kết hợp với hệ thống đề tài, có thể phân ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) thành những loại ca dao khác nhau, như ca dao ru con, ca dao tình yêu, ca dao về tình cảm gia đình, ca dao than thân, ca dao trào phúng...
6. Cấu trúc của tác phm (tiếng Nga: struktura proizvedenia)
T chức nội tại, mối quan hệ qua lại của các yếu tố của tác phẩm mà sự biến đổi một yếu tố nào trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi của các yếu tố khác. Từ xưa người ta đã biết đến cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng chỉ hiểu ở khía cạnh hòa hợp hài hòa, đối xứng. Nghiên cứu văn học từ những năm 20 thế kỉ XX hiểu cấu trúc của tác phẩm văn học là kết cấu*, cấu tạo và mối quan h qua lại của nhân vật với các hình tượng khác, quan hệ giữa các lớp tư tưởng chủ đề và lớp tạo hình, tổ chức lời văn.
Ngày nay, cấu trúc của tác phẩm văn học là một khái niệm được sử dụng phổ biến và được hiểu như là mối quan hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ đặc thù, bởi tác phẩm là một thông báo bằng một ngôn ngữ đặc biệt. Khác với ngôn ngữ tự nhiên, các yếu tố cấu trúc của tác phẩm đều có ý nghĩa riêng. Ví dụ một câu tục ngữ như: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, thì cả mựcđen, đènsáng, trong cấu trúc của câu tục ngữ đều hàm chứa những nội dung mà những chữ ấy thông thường tách riêng ra không thể có được. Do đó muốn hiểu tác phẩm văn học, ta phải tìm hiểu cấu trúc của nó, đặt các yếu tố vào trong cấu trúc của nó.
Tác phẩm văn học là một cấu trúc phức tạp. Hiện vẫn chưa có một quan niệm thoả mãn được mọi người. Tuy vậy nhìn chung, khái niệm cấu trúc của tác phẩm có thể hình dung đại để như sau: xét từ lí luận chỉnh thể, cấu trúc của tác phẩm bao gồm các yếu tố được đặt trong trật tự (cấp độ) phụ thuộc vào nhau như sau đây: tư tưởng - chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống hình tượng (có thể bao gồm cả cốt truyện), kết cấu, ngôn từ. Cũng có ý kiến xem nội dung tư tưởng - chủ đề là yếu tố ưu trội, quy định cả hệ thống tác phẩm, còn cấu trúc đích thực của tác phẩm chỉ bao gồm hai yếu tố: ngôn từ, cốt truyện, được tổ chức với nhau bằng kết cấu. Yếu tố kết cấu là đặc trưng cho bản chất nghệ thuật nói chung của văn học, nó tạo ra nhịp điệu chung cho tác phẩm và cho từng bộ phận. Yếu tố cốt truyện đặc trưng cho văn học với tư cách là nghệ thuật thời gian, gắn với nó xuất hiện con người không gian, thời gian, xung đột, biến cố. Yếu tố ngôn ngữ tiêu biểu cho đặc trưng nghệ thuật ngôn từ. Sự thống nhất các yếu tố (cấp độ) này tạo ra thế giới nghệ thuật ca tác phẩm.
Trên cấp độ chủ đ, cốt truyện , người ta chỉ ra các câu, các từ ngữ chìa khoá có ý nghĩa đặc biệt như là các chủ đề nhỏ, các môtip*. Cốt truyện được hiểu như là tổng thể của các môtíp và tiếp theo, chỉ ra các cốt truyện “di chuyển”, các chủ đề “vĩnh cửu” (thiên nhiên, tình yêu, cái chết,...). Trên cấp độ hình tượng, người ta chia ra hình tượng ngôn từ (các phép chuyển nghĩa), các hình tượng nhân vật, phong cành, chân dung, nội tâm (chiếm một phần văn bản),các hình tượng về thế giới, không gian, thời gian (chiếm toàn văn bản). Trên cấp độ thời gian, người ta chia các yếu tố dòng thơ, khổ thơ, văn bản thơ. Trên cấp độ ngôn ngữ, người ta phân biệt ngữ âm, hình thái, cú pháp, yếu tố trên câu, toàn văn bản, liên văn bản. Toàn bộ các yếu tố vừa kể trên các cấp độ đều tham gia vào cấu trúc của tác phẩm nhằm tạo ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể và thế giới.
Tính lặp lại và vững bền của các yếu tố thuộc các cấp độ cấu trúc tối cao, cho phép nghĩ đến các mẫu gốc* của tư duy nghệ thuật. Tính ổn định của các cấp độ cấu trúc siêu văn bản cho phép nói đến cấu trúc của tình huống văn học sử của thời đại. Một trong những đặc điểm quan trọng của tính ổn định của cấu trúc là kí ức của thể loại, tức là mô hình của thể loại văn học.
7. Câu tứ (tiếng Nga: zamysel)
Xét trong quá trình sáng tác, là hoạt động tư duy để sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật. Trong thiên Thần tứ, nhà lí luận văn học Trung Quốc Lưu Hiệp nói: “Cái kì diệu của cấu tứ là làm cho tinh thần nhà văn gặp gỡ với sự vật khách quan”, “hình và ý gặp nhau”. Các nhà văn thường nói “tình tứ”, “cấu tứ” tác phẩm là như vậy.
Xét như một thành quả sáng tạo, cấu tứ là sự cắt nghĩa, lí giải và khái quát hiện tượng đời sống bằng một hình tượng tổng quát có sức chi phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm. Chẳng hạn trong bài Lệ, Xuân Diệu xem Trái đất ba phần tư nước mắt” là một giọt lệ lớn đi giữa không trung, hoặc trong bài Hồ Chí Minh (1946) Tố Hữu hình dung Hồ Chủ tịch qua hình ảnh “Người lính già” đi tiên phong quyết chiến, hi sinh.
Có thể xem cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Cấu tứ là mô hình nghệ thuật của tác phẩm, là quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người ca nó.
Cấu tứ không phải chỉ có trong thơ trữ tình hoặc trong một tác phẩm nào đó mà có cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật loại khác như tiểu thuyết*, kịch, kí, tản văn, trong sáng tác của một tác giả hoặc một thể loại văn học. Chẳng hạn “phức điệu” (polyphonie) là loại cấu tứ nghệ thuật của Đốt-xtôi-ép-xki để phản ánh cái phẩm chất chưa hoàn thành của đời sống. Miêu tả con người như đ vật (chân dung thằng ăn cắp, bà phán Tuyên,...) là một nét đáng chứ ý trong cấu tứ nghệ thuật của truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan.
8. Châm biếm (tiếng Pháp: satire)
Một dạng của văn học trào phúng*, dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và những hiện tượng này hay hiện tượng khác trong xã hội. Châm biếm gắn liền với tình cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ phải, tình yêu con người.
Châm biếm khác với umua, hài hước mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật.
Về phương diện xã hội, phần lớn những tác phẩm châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân, của tư tưởng tiến b trong lịch sử. Các nhà văn, nhà thơ trào phúng thường có tài châm biếm và đã viết những tác phẩm có giá trị đả kích bọn thống trị tàn bạo, hà khắc, bọn xâm lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu vinh,...
9. Châm ngôn (tiếng Anh: gonomic, maxim)
Lời nói để răn đời, ngăn ngừa sai trái, có tác dụng hướng dẫn về tư tưởng đạo đức, cách sống. Chẳng hạn: Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân (Điều mình không muốn thì chớ làm cho người khác). Mở rộng ra, châm ngôn cũng như cách ngôn là li đúc kết cách sống. Với hình thức ngắn gọn, dễ nhớ, (câu) châm ngôn thường được rút ra từ tục ngữ hoặc từ lời nói của các lãnh tụ, các nhà tư tưởng, các nhà vãn hoá lớn. Chẳng hạn nhiều câu nói của Khổng Tử, Hồ Chí Minh, Lê-nin đã được coi là châm ngôn.
Châm ngôn còn là một thể văn trong văn học cổ, gọi là bài châm hay châm từ.
10. Hài hước (tiếng Anh: humour); còn gọi là umua.
Một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây cười, mua vui. Trên cơ sở vạch ra sự mất hài hoà, cân đối giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lí tưởng và thực tế, như dốt mà hay nói chữ, sợ vợ mà lên mặt làm chồng,...
Hài hước khác cái nghịch dị* ở tính chất kín đáo, thâm trầm, không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý. Hài hước là sản phẩm của trí tuệ con người, là dấu hiệu của tài năng và là biểu hiện của tinh thần lạc quan.
Hài hước khéo léo, nhẹ nhàng vạch ra các mâu thuẫn, tạo ra cái cười bất ngờ, giúp người ta nhận ra sự trớ trêu của tình huống, mỉm cười mà phân biệt đúng sai. Ví dụ: hài hước ở một số bài thơ của Hồ Chí Minh trong tập Nhật kí trong tù:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt, pha trà tự ý ta
Muốn để pha trà đừng rửa mặt
Muốn đem rửa mặt chớ pha trà.
11. Bố cục
Là một phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết Hcấu còn bao gồm: tô chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện,... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở  thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghộ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư  tưởng các tác phẩm: triển khai, trình bày hấp đẫn cốt truyện; cấu Itrúc hợp lí hệ thống tính cách ; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ.
Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn, vì mỗi tác phẩm là một “sinh mênh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét