CHƯƠNG III
TRÀO LƯU DUNG HÒA TÂN CỰU - TẢN VĂN
|
Phạm Thị Ngoạn
|
Trên lãnh vực tản văn và
giữa hai giòng tân cựu, chúng ta thấy
xuất hiện trong tạp chí Nam Phong một trào lưu gọi là dung hòa. Vì bắt nguồn cả từ hiện tại lẫn quá khứ.
Đại diện đặc biệt cho trào
lưu này là Đông Hồ và bà Tương Phố, nhất là Nguyễn Bá Học và Nguyễn Trọng
Thuật.
Công chúng đã có dịp làm quen với thi sĩ Đông Hồ, khi ông cho đăng trong Nam Phong số 128 (tháng 4/1928) cuốn nhật ký “Linh Phượng” viết bằng tản văn, trong đó
tác giả khóc vợ mới qua đời.
Các độc giả khám phá ra một
loại văn mới, là hồi hay nhật ký được ai nấy nồng nhiệt tán thưởng. Khám phá là loại văn mới, chớ còn tác giả
thời ai nấy đều biết tiếng. Phụ đề là “Tập lệ ký của Lâm Trác Chi” (Những trang
viết bằng nước mắt của Lâm Trác Chi); đây là một bài tâm sự dài, phân tách
tỉ mỉ tình nghĩa vợ chồng, nỗi đau đớn tiếc
thương, lòng sùng bái tình yêu, mà không hề rơi vào tình trạng “lãng
mạn đẫm lệ”. Trong tập lệ ký Linh Phượng, nỗi đau đớn được chế ngự hoàn toàn
sáng suốt, luận điệu thật thanh cao,
thái độ tác giả không khác một văn sĩ cổ phong. Chúng ta hãy cùng nhận xét:
“Mồng năm tháng ba, năm Mậu Thìn.
Hôm nay trời thôi gió đông
may, dậy sớm ra trông trời đất thê lương ảm đạm quá, mặt hồ sương núi, sương mù, khói tỏa,
đều một vẻ mung lung phiêu
diêu như cảnh chiêm bao; gió thoảng từng trận một, lạnh ghê mình chịu không
được, trở vào thay thêm áo lót, lấy quyển nhật ký ra ghi trước bàn thờ mẹ Tuyên dưới nhà “Độc thê lệ xá”; viết đến chữ bàn thờ
mẹ Tuyên thì đã hoa mắt, cái đau đớn thổn thức từ dưới đáy lòng đưa lên đôi giọt lệ mà trong tâm trí bày ra một cái kỷ vãng vui vè nồng nàn, và
một cái tương lai âu sầu lạnh lẽo. Than ôi!
Bút mực nào ghi! Bút mực nào ghi (Trang
347).
Thật dễ hiểu khi một tác
phẩm như vậy được Phạm Quỳnh không tiếc lời ca ngợi:
“... Tình mà đến chí
tình như thế, thì lòng nào mà không cảm. Đã
cảm được lòng người thì tình riêng mà tự nhiên hóa ra tình chung (...).
“Nay
cái chí tình ấy lại diễn ra những dòng lâm
li ai oán như trong tập văn
này thì cái sức cảm động lại tăng lên biết
dường nào! Thực vàng thử lửa mới hay; quốc văn ta
đã chịu đựng, đã mang nổi cái chí tình như thế,
thực đã xứng đáng làm một nền văn chương chân chính vậy” (Thượng Chi (NP. Số 128,
trang 347).
Vê phần Tương Phố (nhũ danh Đỗ Thị Đàm), bà đã làm cho các
trái tim rung động thấm thía, bằng những lời than vãn nhịp nhàng như điệu nhạc
trong “Giọt lệ thu” (NP. số 131, tháng 7/1928). Tác phẩm này viết bằng một thể
văn tìm hứng trong ngôn ngữ bình dân đồng ruộng, tuy
vậy mà không từ bỏ hình thức sở trường là song hàng biền ngẫu và những hình ảnh cổ xưa được thừa hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa.
Tương Phố - bến đò trên sông Tương (là con sông nổi danh trong thi phú đời Đường bên Tàu) chào
đời trong một gia đình văn tự. Ngay từ khi còn nhỏ, bà đã được giáo huấn theo quan niệm mới, để sau này trờ thành nhà giáo.
Mới 17 tuổi đời và đang theo học trường nữ sư phạm Hà Nội, bà kết duyên với một thanh niên y sĩ, rồi sinh hạ được một con trai. Cha con chỉ được
nhìn mặt nhau có một lần, vì ngay sau đó, y sĩ được
bổ nhiệm đi phục vụ tại Phan Thiết, một tỉnh ở miền xa xôi, rồi sau nữa sang
Pháp vì có ký hợp đồng. Chàng chỉ hồi
hương sau khi bị thụ bệnh lao phổi, để hắt hơi thở cuối cùng tại Huế, không kịp gặp vợ trẻ và đứa con
thơ. Tấn bi kịch đã gây nên những tiếng vang trong tâm hồn người quả phụ, mà
Tương Phố gửi tới các độc giả Nam Phong (1), ký thác trong một bài tản văn không
có gì mới mẻ, và cũng chưa hẳn thoát khỏi các gò bó của lốì văn cũ. Bài tản văn này đặc biệt ở chỗ đó đây còn điểm những vần thơ lục bát, những đoạn
văn biền ngẫu, hay những hình ảnh cổ xưa. Từ những giòng chữ, dường
như có một điệu buồn xuất phát, làm cho độc giả mủi lòng và các hình ảnh lời văn có khả năng khêu gợi. Dưới đây là một vài tỷ dụ của thể
văn này:
“Ngày hai mươi nhăm tháng bảy
năm Canh thân là ngày anh tạ đất tạ trời, cướp công cha mẹ, dứt tình vợ con, lìa rẽ anh
em, chia đường
kim cổ. Một gánh nợ đời trút cả cho người ở lại” (trang 17).
Nữ sĩ Duclos Salesses dịch
ra Pháp văn như sau :
“Le 25è
jour du 7è
mois, vous faites vos adieux à
la Terre et au Ciel. Vous unissant à moi en voire enfant, vous
vous séparei de tous les autres et entre vous eí le monde des vivanís, s’etend la majestueuse étemité” (Bản dịch trang 432).
Theo thiển ý, đoạn dịch trên
có đôi phần sai lầm. Chúng tôi đề nghị dịch như sau có lẽ
đúng hơn:
"Le
25è jour du 7è
mois de rannée Canh Thân, vous payez
votre dette
de reconnaissance au Ciel et à la Terre, privant déloyalement vos parents
du príx
de la peirte de vous avoir
élevé
et é du qué, coupant les liens d’amour
conjugal et
patemel, quittant freres et soeurs, éloigant les
chemins et prenant pour
vous l’étemité en nous laissant les deítes de la
vie et le poids de ưexistence”.
Giảng giải những điểm sai lầm của nữ sĩ Duclos Salesses
rất dễ. Có những đoạn rời rạc, thiếu mạch lạc, mà độc
giả không thể hiểu nếu không từng đã dự các tang lễ ngày xưa, nhât là ở thôn quê với những phong tục khe khắt hơn ở tỉnh
thành mà nhứng người đàn bà thường khóc lóc kể lể những nỗi khổ đau của mình
trước mọi người. Trong khi “khóc kể” như vậy, nỗi đau thương có thể trôi quá
đà, khiến người ta dùng những danh từ quá khích, thiếu lễ độ, nhưng dù sao dư
luận cũng sẵn lòng tha thứ vì tang gia bối
rối. Nữ sĩ
Tương Phố đã liên tưởng tới các nguồn cảm bình dân đó, khi bà dùng chữ “cướp
công” (như kẻ cướp hoành hành)! Chúng ta có thể hiểu: người chết đã trốn tránh các bổn phận thiêng liêng nhất, phụ lòng các người còn
sống có quyền đối với người chết, và bỏ lại cõi đời
cái gánh nặng nhân sinh!
Lẽ dĩ nhiên là trong những
trạng huống như vậy, mọi trách nhiệm
đều là do định mệnh. Nhưng kết tội hàm hồ như vậy
chứng tỏ là các người thân còn sống đã đau đớn đến mức như mất trí, để trở nên điên dại. Hay mấy chữ “tạ đất tạ trời” mà bà Duclos Salesses dịch là
“vous faites vos adieux à la Terre et au Ciel” trong khi “tạ” có
nghĩa là “cám ơn” (mà ta không nên lầm với chữ kép “tạ từ”,
nghĩa là “cám ơn để ra đi”. Ở đây, theo thuyết nhà
Phật luân hồi, sinh ký tử qui, thể xác trở về lòng đất mẹ, trong khi
linh hồn bay bổng lên trời, chẳng khác nào người quá cố đã tự hiến thân cho Trời đất vậy.
Cùng với các chữ nôm na xuất phát từ ngôn ngữ bình dân, Tương Phố còn khéo dùng các hình
ảnh thừa hưởng của nền văn học cổ truyền và những từ ngữ có sẵn, nhưng với biết bao âm hưởng
và tế nhị khiến người nghe phải động lòng:
“Năm theo anh mười bảy thơ
ngây, đào tơ sen ngó, ái ân thuở đó đem ngày xanh hẹn buổi bạc đầu. Em những chắc cùng nhau đôi lứa thiếu niên, Bắc
Nam dù cách trở, hương lửa vẫn nông nàn,
thì nay dẫu xa xôi, mai rồi lại gặp gỡ và nước non còn đó, đâu hết cơ duyên...” (trang 17).
“Cùng nhau đôi lứa thiếu niên” làm độc giả liên tưởng đến một câu thơ
trong “Chinh Phụ”. Và “đào tơ ngó sen” là một từ ngữ quen thuộc chúng ta đã gặp
trong câu thơ 3137 truyện Kiều mà Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Pháp văn: “Le lotus était encore à Tétat de bourgeon
et le
fil de soie était tout rose”(2) với mấy dòng chú thích kèm theo:
“Đây là một câu thơ tuyệt
đẹp, ngay một cô gái gánh nước kém hèn cũng thuộc lòng, mà tuy nhiên thật khó mà giảng
giải cho đúng nghĩa. Ở đầu cành đóa hoa sen còn búp, một
chút ý niệm về hoa hồng hoa đào tươi thắm, sợi chỉ lụa hồng,
tất cả làm ta liên tưởng đến tuổi trẻ, tình yêu
hôn nhân, những tình không ai biết đích xác là gi? (3) (“Kim Vân Kiều” Ed. Alexandre de Rhodes, Hanội, 1943, Tome II, page 776).
Độc giả không đến nỗi
ngỡ ngàng trước những từ ngữ có sẵn đó, vì bà Tương Phố đã hồn nhiên sắp xếp câu văn thành điệu nhạc, nhờ ở đặc tính của tiếng nói. Nhạc điệu lồng
trong câu văn đã khiến chúng ta quên hẳn tính chất tầm thường của các hình ảnh cũ.
*
Đông Hồ cũng như Tương Phố, vẫn viết bình dân mà vẫn văn
hoa; đó là thể văn ban biên tập Nam Phong
hằng mơ ước. Tán dương những đề tài bất diệt bằng những danh từ của mọi người, lại theo lối các cụ ta xưa mà vẫn đồng thời không từ chối những thực tế của
đời sống hàng ngày, đó là lối hành văn mà nhóm người chúng tôi gọi là “Trường Nam Phong” đang tìm kiếm (4).
Một thể văn khác của trường
này là do cuốn tiểu thuyết “Quả dưa đỏ”
(của Nguyễn Trọng Thuật) đại diện.
Bố cục theo kỹ thuật Tây
phương, cuốn tiểu thuyết phiêu lưu này giới thiệu các
nhân vật thật điển hình, do đó người ta đá coi như một luận đề tiểu thuyết. Tác phẩm đề cao các quan niệm Khổng học, tín ngưỡng ở Thiên
Hoàng, chủ trương trung quân ái quốc, một lòng một dạ với đất nước và những bậc
tiền nhân đã tạo nên đất nước (5).
Mặc dù có những đoạn dài như độc diễn khiến cuộc đàm thoại nặng nề, nhưng không ai đã phủ nhận
những giá trị văn chương của cuốn “Quả dưa đỏ”. Tuy thời đó không gây được nhiều tiếng vang và không được coi như khuôn mẫu, cuốn tiểu thuyết này cũng đã
vượt xa nhiêu tác phẩm khác, vì điển hình cho một loại tư tưởng và một thể văn dung hòa cả tân lẫn cựu (6).
Ngoài loại tiểu thuyết (hay
trường thiên tiểu thuyết) Nam Phong còn góp phần rất lớn nhằm phát triển loại
truyện ngắn (hay đoản thiên tiểu thuyết, hay tân
truyện).
Đứng đâu hàng các tác giả đoản thiên tiểu thuyết là Nguyễn Bá Học. Tiên sinh đáng được coi như gương mẫu của trào lưu
dung hòa vì nếu các tân truyện của ông có ăn khớp với tâp quán, thì ngược lại,
chúng cũng phù hợp với khía cạnh thực tế, có thể nói là tiến bộ, bắt nguồn
thẳng từ những tư tưởng duy tân. Tỷ như trong “Chuyện
ông Lý Chắm” (Nam Phong số 13), chúng
ta được chứng kiến cảnh các bô lão trong làng
chống đối các quan tỉnh; một đại diện làng vào tận kinh
đô Huế thỉnh cầu và được thỏa mãn để chấm dứt tục lệ hàng năm thần
dân phải dâng tiến lên Hoàng đế những con chim lạ, gọi
là “sâm cầm” vì chim chỉ ăn sâm. Có một số người mệnh danh là “công bộc” đã mượn cớ
“dâng tiến” để ăn hiếp dân lành sống tại những thôn xóm mà họ cho là đàn chim
di thực này lui tới định kỳ.
Những tân truyện của Nguyễn
Bá Học đáng được gom thành tập. Chúng tôi tiếc rằng việc này chưa được thực hiện (7).
Một tác giả đoản thiên tiểu
thuyết khác, Nguyễn Bá Trác, cũng không kém
thực tế, nhưng đôi khi ông đã lý tưởng hóa thực tế. Ông là tác giả một tân truyện mà Nguyễn Bá Học dịch
ra Việt văn cho Nam Phong số đăc biệt Tết Mậu Ngọ
1918, dưới nhan đề “Chén rượu năm mới”.
Trong số các tác giả đoản thiên khác có thể sắp xếp vào xu hướng dung hoà,
chúng ta hãy ghi tên Phạm Duy Tốn với “Con người sở khanh”
(NP. số 20 tháng 2, 1919); “Nước đời
lắm nỗi” (NP. số 23, tháng 5, 1919); Nguyễn Mạnh Bổng với “Ai
giết người” (NP. số 28, tháng 11, 1919), “Thần thiên lương” (NP. số 36, tháng 6, 1920); Hoàng Ngọc
Phách với “Giọt lệ hồng lâu” (NP. số 51, tháng 10, 1921); Nguyễn Thúc Khiêm với “Truyện ông nghè Tân” (NP. số 153, tháng 8, 1930); Nguyễn Tiến Lãng với “Tình xưa” do Đông Hồ phiên dịch (NP.
số 179, tháng 12,1932); Tùng Toàn với “Tuyết Nga” (NP. số 192,
tháng 2 - 3, 1934); Lê Đức Nhượng với “Bữa
cỗ nợ miệng” (NP. số 204, tháng 9,1934), v.v...
Tạp chí Nam Phong cũng góp phần
đẩy mạnh đà tiến của nhiều loại văn khác: bài ký, văn du ký, bút ký, tùy bút...
Chúng tôi đã ghi trên đây
bài du ký của Lãn Ông, do Nguyễn Trọng Thuật
dịch từ Hán văn. Bài này ra mắt đã khuyến khích loại văn được phát triển. Nhưng
Nam Phong còn đưa ra nhiều khuôn mẫu khác nữa, dù là phiên dịch từ các tác giả Pháp văn; hay Phạm Quỳnh khi ông ghi cảm tưởng nhân cuộc du lịch tại Pháp, trong “Pháp du hành
trình nhât ký”; hay trong “Hãn mạn du ký” Nguyễn Bá Trác nhắc nhở cuộc sống viễn du của ông tại Trung Hoa và Nhật bản. Có rất nhiều tác giả, và trong mỗi số Nam Phong đều có nhiều trang dành cho các cuộc du ngoạn, các bài
phóng sự, ghi lại những điều mất thấy tai nghe, tả cảnh đất trời cũng như đời sống hàng
ngày. Thật lý thú khi ta có dịp đọc lại những bài như “Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh” của
Nguyễn Đôn Phục (NP. số 100, tháng 10, 1925), “Qua
chơi đất Ninh Bình” của Nguyễn Hữu Tiến (NP.
số 94, tháng 4, 1925); “Sự du lịch đất Hải Ninh” của Trần Trọng Kim (NP. số 71, tháng 5, 1923); “Bà Nà du ký” của Huỳnh
Thị Bảo Hòa (NP. số
163, tháng 6,1931) v.v...
Một loại tùy bút khác được Nam
Phong trau dồi thành công, là loại “Hài văn” do Tùng Vân Nguyễn Đôn Phúc
chủ trương, nhằm sửa sai bằng hài hước.
- Phê bình văn chương:
Loại này được phát triển
theo một đà tiến mới, sau khi các bài tường thuật đăng trong Nam Phong, dưới
bút hiệu Phạm Quỳnh (Bình phẩm “Một tấm lòng” của Đoàn Như Khuê - NP. số 3, tháng 8, 1917); bút hiệu Trình Đình Rư (Bình phẩm thơ văn cùng sách mới
“Ngọn đèn khuya” của ông Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, NP. số 18, tháng 12, 1918), bút hiệu Nguyễn Mạnh
Bổng (Bình phẩm sách “Khốì tình” của ỏng
Nguyễn Khắc Hiếu, NP. số 17,
tháng 11, 1918)…
Nhưng quan trọng hơn là
những bài khảo luận của Phạm Quỳnh về các tác giá Pháp. Những bài khảo luận này đã thức dậy nghệ thuật phê bình, đồng thời đưa ra những kiểu mẫu khả dĩ khơi nguồn cho thế hệ ký giả trẻ.
Chúng ta phải kể: “Nghĩa cái chết” (Le sens
de ia mon, của Paul Bourget,
NP. số 1, tháng 7, 1917); “Một bộ tiểu thuyết Tây về phong
tục An nam” (De la riziere à la
montagne, của Jean
Marquet, NP. số 45, tháng 2, 1921); “Giải nghĩa thế giới ngày
nay” (Interpretation dumonde moderne, của Maurice Simart, NP. số 157, tháng 12
1930); Trải
qua mấy nước Đóng Phương (A travers
1’Orient, của Max
de Saint Felix, NP. số
165, tháng 8, 1931)
v.v...
- Diễn thuyết, nói chuyện trước công chúng:
Phương pháp truyên bá kiến thức này được nhiều người biết đến là nhờ Nam Phong khi đăng tải các
bài nói chuyện, đã đồng thời vạch ra một con đường mà Biền Xa Hoàng Tích Chu sớm xác
nhận và nhân mạnh tầm quan trọng. Chúng ta hãy trích một vài
đoạn trong sự nhận xét của ông:
“Ai cũng biết rằng cái lợi khí của sự văn minh có ba: một là học đường hai là báo quán, ba là diễn thuyết. Vậy diễn thuyết tức là cái cơ
quan giúp sức cho hai nguyên nhân kia, tức là cái động lực của sự truyền bá vậy (...) Nhà tràng chỉ là cái “phạm vi” mà văn chương chỉ là cái “tử hồn” (...) Diễn thuyết tức
là phụ diễn lời mình bằng lời nói trước mặt công
chúng (...) có tân kiến văn, có tân lý tưởng có
ích lợi cho giao hòa cho
luân lý, cho chính trị trong xã
hội, đều đem phô bày cho
công chúng đêu nghe. Còn cái động lực
cảm xúc chỉ ở lúc nhà diễn thuyết đứng lên diễn đài vậy.
Này mỗi câu thổ lộ, mỗi cách cử động đều khiến ta phải để tâm để chí vào. Cái mãnh lực cảm xúc còn gì mạnh hơn nữa; cho nên các nước văn minh đều chărn sự diễn thuyết, coi
như một cái mày phun nước, máy rắc mầm
vậy”.
“Sự diễn thuyết ở xứ ta còn sơ sài lắm, các bậc thượng lưu kiến thức chưa từng lưu tâm đến.
“Trước mười năm nay, hội Trí Tri có mở ra cuộc diễn thuyết, được ít lâu lại bẵng thôi đi (...) May sao
hôm mười ba vừa rồi ông Hội trưởng mời được quan Tổng đốc Thân Trọng Huề đến nhà hội diễn thuyết. Trước hết cụ lớn diễn về nguyên nhân nghề hí kịch nước nhà (...) Sau cụ bình đến bài “Sãi Vải” của cụ Nguyễn Cư Trinh (...) Cụ diễn xong vừa đúng một tiếng đồng hồ, ai nấy đều
vỗ tay xưng tụng (...)
“Đến hôm 26, ông Phạm
Quỳnh là chủ bút bản chí
lại đến diễn “Kim Vân Kiều”. Người đến nghe rất đông, có cả quan Thượng Hoàng Hà Đông quan Thượng Thân và
các quan nữa.
“Nguyên
ở trong bài về “Truyện Kiều” đăng trong Nam Phong số 30, ông đã khảo cứu tường tận rồi, cho nên hôm ông đem ra diễn lại cũng nói đại khái
theo như bài khảo cứu ấy, nhưng được rằng ông giảng diễn rõ ràng, vỡ vạc, nên ai nấy cũng thích nghe lắm (...) Diễn xong thì vừa đúng 2 giờ
đồng hồ, mà người nghe không chán; thế đủ biết rằng “Truyện
Kiêu ” là hay,
mà nhà diễn lại tài (...)
“Sự
diễn thuyết công hiệu, giúp đường khai hóa
không nhỏ vậy” (Việc diễn thuyết Hội Trí
Tri, Thời đàm, NP. số 38, tháng 8, năm 1920,
trang 175 176).
*
Một tản văn như của Trần Văn Tăng (8) về ý, những tản văn như của Nguyễn Trọng Thuật, bà Tương Phố, Đông Hồ về tình, chứng tỏ giấc mơ xưa mong tiếng Việt Nam một
ngày nào đó sẽ có đủ khả năng để diễn đạt mọi ý tưởng và tới tuổi trưởng thành,
ngày nay đã thực hiện. Và sự thực đó được trình bày ngay trên những trang giấy trong tạp chí.
Nhóm Nam Phong có thể tự hào
về phần góp của mình vào công cuộc kiến tạo văn hóa
quốc gia. Biết bao nhiêu đoạn đường đã vượt qua, kể từ ngày giới thiệu mục “Văn
uyển”, Phạm Quỳnh viết trong bài chương trình đăng trong số 1 như sau:
“Mục “Văn uyển” là để riêng
cho những bài văn vần, tản văn, từ phú, ca khúc... bằng quốc âm cùng bằng chữ nho. Mục này sẽ rộng mở để hoan nghênh các
nhà văn sĩ mới nước ta, nhất là
những nhà đã khéo đào luyện cái chất “nôm” (9) mà mở đường cho một lối văn chương riêng bằng quốc
ngữ(10). Chúng tôi mong ở các nhà văn sĩ mới ấy lắm vì bao giờ nhời nôm ta có được “bằng nhập tịch” vào cõi “văn chương” (11) thì sự học trong nước mới có cơ phát đạt lên
được. Văn chương vốn là cái máy truyền đạt tư tưởng
rất nhậy!”(“Mấy nhời nói đầu” NP. số 1, tháng 7 năm 1917,
trang 6)./.
Ghi chú:
1. Những trang tâm sự của bà Tương Phố được nữ sĩ Jeanne Du clos Saíesses
dịch ra Pháp văn, đăng trong Le moniteur
d’Indochine. Bản dịch này đã được Nam Chi
tùng thư ở Sàigòn tái bản năm 1967.
2. Trong cuốn Connaissance du Việt Nam Huard và Durand
trích dẫn đoạn này trong
truyện Kiều và giải thích như sau:“Depuis que leurjeunesse
s’etait épanouie
comme le tendre nénuphar et comme le délicat pêcher...”.
3. Nguyễn Văn Vĩnh viết đoạn này bàng
Pháp văn, nguyên tác như sau: “Voici un nouveau vers que la
plus humble porteuse
d’eau connait par coeur et dont pourtant ỉl
esí difficile de donner le sens
exact. La tige
du lotus non encore ouvert, 1’idée de
rose, de
tendre pêcher, de fil de soie, cela dit: jeunesse,
amour, manage, mais
quoi exactement ?”.
4. Chúng tôi gọi là “Trường Nam Phong” nhưng tác giả có thể vận dung hòa giữa tân và cựu
một nền văn chương “mới” một cách
tiết độ, không xung khắc kịch liệt với truyền thống: một nền
văn cởi mở chấp nhận mọi sự biến hình tùy theo cảm giác Việt Nam
đương thời.
5. Cuốn tiểu thuyết đã được tóm tắt trang 46.
6. Cùng với “Quả dưa đỏ” được giải nhất của Hội Khai trí tiến đức năm 1926, Hội
cấp bằng khen cho hai cuốn tiểu thuyết cùng dự thi (xin coi Trúc Hà trong bài
“Lược khảo về tiến hóa cứu quốc văn trong lối viết tiểu thuyểt ” NP. số 175 176, tháng
8 và 9/1932). Đó là cuốn “Kim Anh lệ sử” của Trọng Khiêm, và “Nho Phong”
của Nguyễn Tường Tam.
Trọng Khiêm kể chuyện một
cô gái 17 tuổi, tình trạng chẳng khác nàng Kiều trong truyện của Nguyễn Du. Mặc dù không muốn, nhưng gia cảnh là tai ương đã dồn nàng tới một cuộc sống sa ngã, giang hồ. Bằng một ngòi bút sắc bén, Trọng Khiêm lợi dụng
hoàn cảnh để mô tả những tệ đoan trong xã hội Việt Nam thời đó; ông đả kích tham nhũng, hối lộ và lên án những người làm quan mà không xứng đáng với sứ mệnh.
Về phần Nguyễn Tường Tam sau này nổi
tiếng dưới bút hiệu Nhất Linh, ông tả cảnh mội gia đình nho học, làm vinh dự cho Khổng giáo: ông Phủ Lệ, sau khi làm quan thanh liêm, nay
về hưu trí. Ông trau dồi
đứcđộ và phẩm cách sống thanh bạch với cô con gái can trường trong trắng đảm đang tìm hết cách để giữ vai
trò cột trụ gia đình.
Thể văn của cả hai
cuốn tiểu thuyết thật tinh vi, đánh dấu một bước tiến đáng kể. Về phần Nguyễn Tường Tam, đặc biệt thể văn của ông còn dung
hòa tế nhị với vẻ nên thơ. Tuy vậy cả hai cuốn tiểu thuyết đều ít được hoan nghênh.
Theo ý chúng tôi, lý do là bởi tình trạng thời bấy giờ: các thanh niên dành cảm tình cho các loại tác phẩm khả dĩ
miêu tả những mâu thuẫn và phấn đấu của giới trẻ
thường xuyên bị lôi kéo giữa cá nhân chủ nghĩa của Tây phương và các yêu sách của nếp sống gia
đình tồn cổ.
7. Về những đoản thiên của Nguyễn Bá Học, chúng tôi nhận thấy có hai sơ ý của
các giáo sư Nguyễn Duy Diễn và Bằng Phong, trong cuốn “Luận đề về Nam Phong tạp chí”. Nói về Nguyễn
Bá Học
và mặc dầu gần ba trang đã được để dành để
tóm tắt cốt chuyện: Có gan làm giàu (trang 68 và 09),
Nguyễn Duy Diễn và Bằng
Phong đã ba lần ghi lầm là hai ông sơ lược “Câu
chuyện gia đinh”. Ngay chữ “gia đình” cũng là ghi sai, và chúng ta gặp lại sự lầm lẫn này trong cuốn “Mục lục phân tích Nam Phong” (trang 74) của Nguyễn Khắc Xuyên. Nhan đề này không phải “gia đình” mà là "gia tình”, nghĩa là mối tình trong gia đình. Nguyễn Bá Học
đã viết và Nam Phong đã in là “Gia tình" (số 10,
trang 242. Những lầm lẫn đáng tiếc hơn là bài
tóm tắt không phải của “Câu chuyện gia tình” mà là của “Có
gan làm giàu
" cũng cùng một tác giả (NP.
số 23).
8. Tỷ dụ hùng hồn
nhất dẫn chứng tản văn đã trưởng thành và có
đủ khả năng diễn đạt mọi ý kiển và tư tưởng là bài “Quá khứ và hiện tại” của Trần Văn Tang. Thật kỳ lạ khi tác giả này đã không được chú ý sau khi bài của ông ra mắt công chúng; hơn nữa bài đó ngày nay không mấy ai
còn biết đến. Chúng ta, ta có thể đọc lại trong Nam Phong số 106, với lời đáp của Phạm Quỳnh trong số
107. Nhà chủ bút viết:
“Thật lâu nay trong các
báo chí ta chưa có mấy ai luận thuyết có giá trị và có đặc sắc bằng bài ấy. Lập luận đủ cao sa cho cai quát được cả vấn đề, thuyết lý đủ tinh vi cho khám phá được khắp mọi lẽ, trước sau có mạch ỉạc, trên dưới có
thông hệ, lại tham bác Đông
Tây, dẫn chứng kim cổ mà nghị luận có vẻ điềm đạm thung dung không có
lời kịch liệt,
không có giọng chua cay, uyển chuyển ra cái thái độ kẻ học giả Đông phương vậy” (trang 1) (“Văn học và chính trị”. NP.
số 107, tháng
7, 1926).
Trân Văn Tang là một nhà đạo đức kiêm tư tưởng
chính trị, thấm nhuần tư tưởng Âu châu ngang với các triết tý cổ học Á
châu. Có thể xem ông như trường hợp độc nhất là một tư tưởng thuộc hệ
thống chúng ta.
9. Không nên lầm chữ “nôm” (là cách dùng chữ nho đã được biến hóa và giản dị
hóa để ghi các âm thanh Việt Nam)
và tiếng “nôm” hay “nôm na” (là tiếng nói mộc mạc hàng ngày, trái lại với lời văn
hoa mỹ trong giới từ chương).
10. Không nên lầm chữ “quốc
ngữ” với danh từ “quốc ngữ” có nghĩa là tiếng nói
của dân một nước.
11. Xưa kia, ở thời đại thi hương thi hội bằng Hán tự, những bài viết bằng tiếng Việt không dược chấp nhận. Vì bị coi như “nôm na” không văn
chương.
(Xin coi Huard et Durand,
trong “Connaissance du Việt Nam”, trang 84, 270, 274.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét