Khiemnguyen

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Văn phẩm Hồ Chí Minh (phần 1)



VĂN PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VIẾT TRONG NHỮNG NĂM 20
VÀ THƠ CA CA TRÍ THỨC CÁCH MẠNG

Trích từ Văn học Việt Nam
(1900 – 1945)
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp khủng hoảng trầm trọng về lý luận và đường lốì. Những truyền thống dân tộc đã được đem ra thử thách nhưng không cứu được nước nhà. Phan Bội Châu, và Phan Châu Trinh tham bác lý luận cách mạng tư sản (kiểu cũ) của phương Tây cũng không giải quyết được cuộc khủng hoảng ấy.
Trong khi các lãnh tụ của một số dân tộc lớn ở châu Ấ đã không vượt qua được chủ nghĩa dân tộc, thì Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội khoa học con đường cứu nước tất thắng, trở thành chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nếm trải đời sống của dân thuộc địa, đời sống công nhân ở các nước đế quốc chủ nghĩa, tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đón ngọn gió lớn của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, tìm thấy ở cách mạng xã hội chủ nghĩa chìa khóa giải quyết những vấn đề của độc lập dân tộc và phát triển xã hội, sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân, giữa phong trào công nhân ở chính quốc và phong trào giải phóng dân tộc, học tập lý luận và đấu tranh thực tiễn - tất cả những điu ấy hun đúc Nguyễn Ái Quốc thành một lãnh tụ kiểu mới của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyễn Ái Quốc ở thời niên thiếu của mình đã sống trong không khí nhiệt thành yêu nước và văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như đã lĩnh hội được vốn văn hóa phương Đông và Việt Nam, bao gm văn hóa dân gian. Nói cách khác, trong Nguyễn Tất Thành đã tim tàng con người kiểu Phan Bội Châu. May mắn là ch, so với hai cụ Phan, anh Nguyễn Tất Thành thuộc thế hệ đang lớn lên. Cả Phan Bội Châu và Nguyễn Tất Thành đểu tâm đắc với câu (367) thơ của:
Mi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối h thị n chương
c hai đu cm bút như khí của cuộc đu tranh cách mạng. Nhưng thay vì sự cự tuyệt học chữ La tinh của một thế hệ trước đó, Nguyễn Ái Quốc đã khổ công rèn tập và chiếm lĩnh được ngôn ngữ Pháp ti trình độ viết được những văn phẩm hiện đại như một nhà văn phương y.
Nguyễn Tất Thành tiếp tục sự nghiệp cứu nước của những thủ lĩnh nghĩa quân chng thực dân Pháp, như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, cũng như của những người khởi xướng phong trào yêu nước đầu thế k XX, như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhưng Người đã không theo con đường cũ, đã đi tìm con đường khác. Để tìm con đường đó, Nguyễn Tất Thành đã khc phục những thành kiến về dân tộc, chng tộc, khc phục ý chí luận (volontarisme) - những điu mà thế hệ Phan Bội Cháu, Phan Châu Trinh, với biết bao nỗ lực và kiên trì, cuối cũng vn không vượt thng được.
Thụ mẫu tại, bất khả viễn du”, lời dạy ấy của thánh hiền vẫn còn là “chiếc vòng kim cô đi với thế hệ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Thế nhưng, Nguyễn Tất Thành đã “viễn du”, “xuất dương tìm đường cứu nưc khi phụ thân của Người đang kiếm sống bng nghề bốc thuốc, chữa bệnh. Nguyễn Tất Thành làm theo tiếng gọi thiêng liêng của đại hiếu dân tộc - một truyn thống Việt Nam.
Rời Việt Nam năm 1911, đặt chân lên nhiu nước ca châu Âu, châu Á, châu Phi, châụ Mỹ, làm nhiu nghề khác nhau, cuối Đại chiến thế gii lấn thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc đến Paris và ngay lúc đó tham gia vào phong trào công nhân xã hội ch nghĩa. Năm 1920, Nguyễn Ái Quc tham gia Đại hội Đảng xã hội Pháp, đại hội đã thông qua nghị quyết v thành lập Đảng Cộng sản, và Người đã trở thành thành viên ca Đảng ngay từ ngày đu tiên ấy.
Sống và hoạt động cách mạng ở Paris, Nguyễn Ái Quốc tích cực cộng tác với báo chí Pháp. Những văn phẩm của Người đã được đăng trên những trang báo Nhân đạo, Đời sống thợ thuyên, n chúng, Thư tín quc tế, v.v... Trong hoạt động chính trị và văn học của mình, Nguyễn Ái Quốc được sự giúp đỡ to lớn của những nhà hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp, các nhà văn, nhà chính luận - những người đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn học cách mạng của giai cấp công nhân Pháp, trong việc xác lập chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Pháp: M. Cachin, P. Vafllant - Couturier, H. Barbússe, J. Longuet - đại biểu quốc hội Pháp và là một trong những người sáng lập báo Dân chúng. Năm 1921, Nguyễn Ái Quc cùng những nhà cách mạng khác của các thuộc địa Pháp thành lập Hội ln hiệp các dân tộc thuộc địa mà nhiệm vụ của nó là đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức ở tất cả các nước. Trong những năm 1922 - 1926 Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa đã xuất bản báo Người cùng khổ (368).
Việc biên tập là tính cht tập th, nhưng Nguyễn Ái Quốc là người chịu trách nhiệm biên tập thường xuyên hơn những người khác cho các s báo ra đời, hơn nữa, trên mỗi số báo, bao giờ cũng có một bài và đôi khi một số bài của Người. Người cùng kh đã trở thành tờ báo cách mạng đu tiên mạnh mẽ đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân ngay sào huyệt của nó.
Sng ở Paris, thích đọc Shakespeare Dickens bằng tiếng Anh, đọc Hugo Zola bằng tiếng Pháp, đọc Lỗ Tấn bng tiếng Trung Quốc, am hiểu văn hóa Pháp ti mức có thể giảng giải cho chính người Pháp v văn hóa ấy, tt nhiên, Nguyễn Ái Quốc phân biệt văn báo chí và nghệ thuật, văn chính luận và văn tái hiện cuộc sống bằng hình thức của bản thân đời sống hay bng hình thức ước lệ tượng trưng.
Người cũng hiểu rằng, trong văn học hiện đại, thường khi có sự tổng hợp những hình thức thể hiện nghệ thuật khác nhau đó với sự tương hợp nghiêm ngặt với nội dung. Những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc viết trong những năm 20 nổi bật tính chính luận, nhưng đng thời là sự tổng hợp như vậy, trong văn luận chiến - báo chí, cũng như trong văn nghệ thuật. Những văn phẩm đó phản ánh chân thực và sc bén những quyền lợi chung của nhân dân bị áp bức, bóc lột ỏ các thuộc địa và giai cấp công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những văn phẩm đó trước hết hướng tới nhân dân các nước thuộc địa của Pháp và nhân dân Pháp. Chúng ra mt công chúng Paris, một công chúng có nhiều xu hướng khác nhau, nhưng có nét chung là rất sành nghệ thuật, thưởng thức nghệ thuật rất tinh tế. Chúng đến với nhân dân lao động ở các nước thuộc địa thông qua những người trí thức biết tiếng Pháp, thích sự khúc chiết và tinh tế (géométrie, finesse) của văn Pháp. Những người trí thức này, khi giác ngộ cách mạng đã trở thành cái cầu ni đưa lý luận v cách mạng vô sản vào công nhân, nông dân và các tng lp nhân dân lao động khác ở thuộc địa.
Viết những văn phẩm của mình bằng tiếng Pháp, Nguyễn Ấi Quốc đã suy tính kỹ những điu kiện khách quan đó. Lòng yêu nước của con người suốt ngày đêm nghĩ đến Tổ quốc mình, nhân dân mình, năng khiếu văn học, sự khổ luyện, khả năng phân tích đúng và đáp ứng tới mức tối đa đối tượng phục vụ của sáng tác ở Nguyễn Ấi Quốc mang lại cho vân học dân tộc Việt Nam nhng văn phẩm viết bng tiếng Pháp có trình độ ngh thuật tuyệt vời, nội dung và hình thức hiện đại:
- Những truyện ngăn như Paris, Lời than vãn ca Bà Trưng Trắc, Con người biết mùi hun khói, Đng tâm nht trí, Vi hành, Con rùa, Những trò lố hay là Varenne và Phan Bội Châu;
- Tường thuật báo chí như Hành hình kiểu Lynsơ, một phương diện ít người biết đến của nn văn minh Mỹ (369);
- Văn tiếu phẩm, châm biếm (feuilleton, pamphlet), như Động vật học, Sở thích đặc biệt, Nói về loài cm thú, Viện hàm lâm thuộc địa;
- Ký, chẳng hạn Đoàn kết giai cp;
- Kịch châm biếm, như Con rồng tre;
- Tác phẩm chính luận: Bn án chế độ thực dân Pháp.
Năm 1924, ln đu tiên Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô. Ở đây, trên báo chí Xôviết, chúng ta đọc được những bài báo của Người: Lenin và các dân tộc thuộc địa, Lenin và phương Đông, v.v...
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cùng với các nhà cách mạng Việt Nam khác thành lập ở Quảng Châu tổ chức mácxít Việt Nam đu tiên: Việt Nam thanh niên cách mạng đòng chí hội. Báo Thanh niên của tổ chức này được xuất bản theo sáng kiến của Người đã đóng vai trò lớn trong việc thống nhất các nhà cách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và việc thành lập Đảng Cộng sản. Người còn, tích cực tham gia xut bản báo Công nông, báo Lính kách mệnh. Người đã viết tài liệu huấn luyện cán bộ cách mạng Đường kách mệnh (1927)..
Hoạt động cách mạng và hoạt dộng của Nguyễn Ái Quốc trên lĩnh vực văn học như vũ khí sắc bén của đấu tranh cách mạng trong những năm 20 là kết quả tất yếu ca cuộc tiếp xúc của châu Âu với các dân tộc lúc ấy thừa lòng dũng cảm nhưng nghèo nàn và lạc hậu, một mặt như giữa chủ nghĩa thực dân xâm lược và nhân dân các nước bị xâm lược, mặt khác như giữa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với phong trào giải phóng dân tộc, giữa văn hóa và văn học tiến bộ, cách mạng của châu Âu, với văn hóa, văn học yêu nước của các dân tộc thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc lĩnh sứ mạng lịch sử vừa là đại biểu của nhân dân Việt Nam,  vừa là đại biểu của các dân tộc bị áp bức, vừa là đại biểu Quốc tế cộng sản có trách nhiệm tuyên truyn, tổ chức và thúc đy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, liên kết phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lòng các nước đế quốc chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc vì thng lợi chung của cách mạng thế giới. Những điu này mang lại vị trí có một không hai của văn xuôi Nguyễn Ái Quốc những năm 20 trong việc hiện đại hóa văn học Việt Nam đã trở nên vô cùng cấp thiết vào đu thế kỷ XX, khi đt nó trong tương quan với hai hiện tượng văn học khác: văn học yêu nước của các nhà chí sĩ, văn học mới của trí thức tân học chủ yếu phản ánh cuộc sống thành thị lúc ấy đang tư sản hóa. Ba hiện tượng văn học thuộc v những thời đại khác nhau này lại tn tại và tác động qua lại lẫn nhau trong cùng một thời điểm lịch sử, đấy chính là nét đặc thù của một nn văn học dân tộc ở một nước phong kiến nghèo nàn, lạc hậu bị rơi vào nanh vut của chủ nghĩa đế quốc, đang thức tnh, gấp rút và mạnh mẽ tham gia vào phong trào nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội (370).
Văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 là bộ phận hợp thành đu tiên với nội dung hiện đại, hình thức hiện đại và mang tính chất quốc tế sâu sc của văn học cách mạng giai cấp vô sản Việt Nam. Đó là lớp đầu tiên được phát lộ của phong cách văn học tim tàng nhiu lớp của Chủ tịch H Chí Minh.
Những lớp này rất xa nhau v thời gian và không gian, rất khác nhau v đc điểm và tính chất, chng hạn văn xuôi của Người những năm 20 được viết “như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rt Pháp”[1], thơ và văn xuôi bng tiếng Việt rất giản dị, dễ hiểu, tựa như Chủ tịch H Chí Minh “hạ mình cho vừa tầm mọi người Việt Nam để nâng đỡ mi người Viêt Nam lên tầm Người”[2], thơ chữ Hán như sự kết hợp tài tình “một cốt cách cổ điển và những sáng tạo hiện đại”[3]. Bởi vì Người đã thâu thái được những thành tựu của văn hóa dân tộc và của thế giới, của cổ và kim, của Đông và Tây, của văn học thành văn và folklore, sử dụng chúng để tăng thêm sức mạnh chiến đấu của ngòi bút của mình vì hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.


[1] Phạm Huy Thông. Nghệ thuật viết văn ca H Chủ tịch qua Truyện và ký” (Tạp chí Văn học, số 3-1974).
[2] Phạm Văn Đng. Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, NXB Văn học, Hà Nội, 1979. tr. 187
[3] Gi. Buđaren. Một cốt cách cổ điển và những sáng tạo hiện đại, trong Nghiên cứu, học tập thơ văn H Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979 tr. 561.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét