Khiemnguyen

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

(1) Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920 -1930



Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành. Theo một vài tác giả (ví dụ: Phan Thị Nga[1] (1936), Phan Cừ và Phan An (1996)(1)...) và theo kết quả sưu tầm nghiên cứu của bản thân người đang viết những dòng này, thì Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn từ năm 1919 và từ đó đến đầu thập niên 1940 (hoặc cuối thập niên 1930) đã liên tục gắn với đời sống văn chương báo chí Sài Gòn, dù suốt thời gian ấy không phải lúc nào cũng sống ở đây.
Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi nổi tiếng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời.
Phan Khôi can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả.
Và ở Việt Nam, nếu đời sống văn học, trước hết là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi được thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí.
Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ đi tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu,...) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!
Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài có lẽ là tờ Lục tỉnh tân văn.
Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong (Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta // N.P.s. 23, tháng 5/1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7/5/1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi.
Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca Đưa chồng và Nhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là lính tùng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong (Sau này vào năm 1958 ở miền Bắc, Phùng Bảo Thạch sẽ “hồi cố” nội dung hai bài này để tố cáo thái độ “ôm chân đế quốc” của Phan Khôi).
Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là về đề tài thường thức xã hội và về ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (với những nội dung bài cho từng kỳ báo lần lượt là: - Nước mẹ đẻ; - Địa dư nước An Nam; - Chính trị nước An Nam; - Phong tục nước An Nam; - Dân phải nộp thuế;...) và mục Ghi chép tiếng An Nam (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12/5 đến 25/6/1919).
Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936, tài liệu dẫn trên) thì “làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc...”.
Bài báo “kịch liệt quá” ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị đăng hai kỳ báo (LTTV. 14/5 và LTTV. 21/5/1919).
Theo thông tin trong bài báo ấy thì trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn  đã đăng toàn văn bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: chữ “Đông Dương tự trị” đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói “Đông Dương tự trị” là nhằm đòi thêm quyền cho mình trong vị trí quan chức Pháp lớn nhất ở Đông Dương chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến Toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là “kịch liệt quá” và buộc ông thôi cộng tác?
Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh,  nhận lời cộng tác dịch Kinh Thánh  Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành.
Vài ba năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, chưa rõ từ thời điểm cụ thể nào, cũng chưa rõ khi vào có viết ngay cho tờ báo nào hay không; chỉ có nguồn tư liệu (theo Phan Cừ và Phan An, 1996, tư liệu đã dẫn) cho rằng, sau khi vào Nam lần này, vì một lý do gì đó, Phan Khôi phải chạy xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.
Theo tìm hiểu của tôi, thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập.
Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo): “Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam” (ta nên lưu ý điều này: bà Phan Thị Nga khi đó đang làm cho báo Tràng An ở Huế; bài báo của bà là kết quả hỏi chuyện trực tiếp Phan Khôi, - khi đó đang làm chủ nhiệm tờ Sông Hương cũng ở Huế, nên nhiều điều trong bài có lẽ là ghi lại lời bộc bạch của chính Phan Khôi).
Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc “báo chí sử” Sài Gòn những năm 1920-30, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi,... lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng Thần chung từ 4/7/1929, v.v…).
Cuối năm 1927 hai ông hội đồng Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois).
Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng “hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo”, biến nó từ chỗ “có khuynh hướng thân chính phủ» trở nên “có khuynh hướng đối lập” và “là tờ báo có rất nhiều người đọc”[2].
(Tôi đang tìm mua cuốn này, ai có?)
Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương học thuật trong nội dung tờ báo, - thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,...) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, - thì  ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn.
Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII - XVIII, kể cả “Nam âm thi thoại” mà tên cuốn sách tương lai và những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-1919, kể cả bài thơ “Dân quạ đình công” làm từ sau “vụ án xin xâu” ở miền Trung hồi 1907-1908, v.v..., tất cả, Phan Khôi đều ký tắt bằng hai chữ C.D. - hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi trước.
Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy // ĐPTB 28/8/1928; Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp //ĐPTB 30/8/1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học.
Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là “cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”; cạnh đó là những bài cũng phản bác “cái thuyết châu Âu sắp tan nát” của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải “Âu hoá”, phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội  mình lên trình độ của thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu // ĐPTB 26/7/1928; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát //ĐPTB 15/9/1928; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương //ĐPTB 27/9 và 2/10/1928; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà //ĐPTB 11/10/1928)[3].
Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của “văn hoá đọc”, khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần dẫn nhập đưa người đọc ham xem truyện tiện thể xem các quảng cáo, như phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo.

Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra “Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần do Chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh “Phụ trương thể thao” và “Phụ trương phụ nữ và nhi đồng”; những cửa mở phụ trương kiểu này sẽ trở thành thông dụng cho nhiều tờ báo ở Sài Gòn trong nhiều năm sau.
Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ  bình luận văn học khảo chứng; Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: “Hà Nội chánh khí ca” // ĐPTB 4/10/1928; giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài, dịch thuật văn chương...
Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử việc trong một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong tiểu mục “Câu chuyện hằng ngày” do Chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một “mặt nạ tác giả”[4] hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí.
Vai trò Tân Việt trong “Câu chuyện hằng ngày” sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung.
Thần Chung sau năm 1945
Trong việc tìm tòi cách viết hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Charles de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le Journal và L’ Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời[5]
Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báo và Thần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc “báo chí sử” Sài Gòn: theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả mô tả, mà sự thể đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác.
Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên: ông chấm dứt tên báo Đông Pháp thời báo từ ngày 22/12/1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7/1/1929, tờ báo mới với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) ra mắt số 1.
Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra.
Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22/3/1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc[6].
Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục “Câu chuyện hằng ngày” dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm thử, được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên “câu chuyện hằng ngay” vẫn ở tình trạng “cách nhật”.
Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là “câu chuyện hằng ngày” với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài.
Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v..., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả, khi cười cợt khi nghiêm chỉnh.
Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình chỉ từ 3/10/1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu.
Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn[7].
Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về vùng đất Tây Nguyên, về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v... Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò của Phan Khôi.
Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), - ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo.
Chính Nguyễn Vỹ trong một cuốn sách mang tính hồi ký nhan đề Tuấn, chàng trai nước Việt (1970) đã nhớ lại sự việc này tuy ông gắn hành động ấy của Phan Khôi với tờ Phụ nữ tân văn, mặc dù không phải tuần báo này mà chính nhật báo Thần chung đã tổ chức cuộc thi quốc sử, cuộc thi có lẽ đã không được tổng kết trao giả, do tờ báo bị cấm rất đột ngột.
Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn.
Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là “đứng mũi chịu sào”[8] cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu Đào Trinh Nhất thường đảm nhận vai trò chủ bút thì Phan Khôi trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên.
Lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ  trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2/5/1929 đến 21/4/1935 (chưa nói đến việc nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ).
Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài để viết cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống.
Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến trong nếp sống.(xin mời xem tiếp phần 2)


[1] Phan Thị Nga: Lối tự học của những bực đàn anh nước ta: [kỳ 1]  Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận Lý // Hà Nội báo, Hà Nội, s.10 (11 Mars 1936); Phan Cừ & Phan An: Phan Khôi niên biểu // [trong sách] Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng 1996: Nxb. Đà Nẵng, tr.152-163.
[2] Huỳnh Văn Tòng: Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp HCM. Nxb. TP HCM, 2000,
[3] Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng. Nxb. Đà Nẵng, 2003.
[4] Khái niệm “mặt nạ tác giả” [maska avtorskaja]  được một số học giả Nga định nghĩa như phương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độc giả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ pháp chính của mê hoặc (mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, Maska Avtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách: Literaturnaja Enciklopedija Terminov i ponjatij // A.N. Nikoljukin tổng chủ biên // Moskva: HPK “Intelvak”, 2001, tr.511-512).
[5] Về hai nhà báo và nhà văn Pháp này, mới đây dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris đã tra cứu và thông tin về, cho biết: Georges [chứ không phải Charles] de la Fouchardière (1874-1946): năm 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập tờ L’ oeuvre (Xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến 1939-45; Clément Vautel (1876-1954; tên thật Clément Vaulet; trong bút danh đảo let thành tel): viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, La Liberté..., đặc biệt giữ  mục “Mon film” (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái nhìn rất “phải lẽ” của một “francais moyen” (thường dân), được độc giả đương thời hâm mộ; ngoài ra còn là tác giả một số tiểu thuyết; cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến II. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Trần Thiện Đạo về những thông tin trên.
[6] Xem: Vương Lệ Thiên: Thỏ chết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?) // Trung lập, Sài Gòn, 27/3/1930; Phan Khôi: Có lẽ là điều sai lầm của những người trí giả // Trung lập, Sài Gòn,10/5/1930.
[7] Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004.
[8] Tin: “Phụ nữ tân văn” bị đóng cửa 5 tháng  //  Trung lập, 14/5/1931.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét