NGHĨA VỤ NHÀ LÀM BÁO
“Các ông phải tự coi mình là nhà giáo dục. Giáo dục cho ai? Giáo dục cho khắp mọi người. Giáo dục cho cái dư luận
trong nước
nhờ các ông mà biết đường lối nên theo, biết công việc nên làm, biết cái tư tưởng nên nghiền ngẫm suy
xét…
…Cái trách nhiệm của các ông là phải điều hòa được mọi người, công cáo cho dư luận trong nước biết những vấn đề nên biết, những việc có thể sảy ra sau này mà cần phải liệu trước, những sự biến cách tất có ngày sinh ra
trong cuộc sinh hoạt. Nền xã hội một dân như dân xứ này,
sống ở thời đại
cả nhân loại đều biến động không thể đứng im mãi như xưa được...
Một tờ báo! Một ngọn bút! Còn cái nguyên động lực nào mạnh bằng!
(Nhời diễn thuyết của quan
Toàn quyền Albert Sarraut).
Bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Xa lộ đại nhân ở hội các báo quán Nam Kỳ ngày tháng
mười trước, thực là cái khuôn vàng thước ngọc cho các nhà làm báo trong xứ
này. Kỳ trước bản báo đã dịch
toàn văn trong mục Thời đàm[1], định đến kỳ này giải kỹ những ý kiến hay, tư tưởng cao của quan
Toàn quyền, mà
nhân bàn rộng đến cái nghĩa
vụ nhà làm báo ở nước Nam ta ngày nay.
Quan Toàn quyền ngài binh sinh là một tay làm báo có tiếng bên quí quốc, nên ngài vẫn có cảm tình
riêng với các nhà báo. Ngài yêu mến nghề báo vô cùng, yêu đến mê, đến sùng, coi là một nghề tuyệt phẩm ở đời. Suốt bài diễn thuyết của ngài
tức là một bài ca ngợi khen công đức nghề làm báo. Vậy thì nghề báo có cái
nghĩa thâm trầm, cái thú cao thượng thế nào mà
cảm được một
bậc đại trí như
thế?
Cái thú cao thượng, cái nghĩa thâm trầm ấy, ngài
đã giải ra trong mấy nhời hùng hồn như sau
nấy. Ngài nói:
“Một tờ báo!
một ngọn bút! Còn cái nguyên động lực nào mạnh bằng! Người ta ở đời như đứng trong cái xưởng sinh hoạt nhớn, nhân loại đương có công cùng sức mà tiến lên cõi Công lý là cái nơi ai ai cũng nhiệt tâm mong
mỏi cho tới đến được, như thế mà mình được đem dùng cái nguyên động lực kia để giúp cho cái lòng hi vọng này, thi trần
gian còn sự khoái lạc nào bằng. Trong khi nhân loại tiến lên như thế để cầu lấy sự thực sự hay, thì những tư tưởng này, chủ nghĩa kia khơi lên bời bời, tranh nhau kịch liệt,
mình đứng giữa mà biểu dương ra cái lý tưởng nào là cái lý tưởng chân chinh, cái lý tưởng khá sáng tạo được
những sự nghiệp hay, đem phô bày ra cho mọi người biết, đem ban bố trong công chúng, lấy mà kích thích tinh thần người ta, chiếu diệu tâm trí người ta, tự coi mình như người lính
thổi kèn để truyền sự thực, báo tin lành, tự coi minh như người quân tiên phong tay cầm đuốc để chiếu sáng vào trong đám người u âm sầu khổ, để soi đường cho cái Công lý nó sắp đến; còn
cái nhiệm vụ nào đẹp bằng, còn
cái phẩm giá nào cao bằng, mà đáng cho một đời người nên tận tụy vì đây! Không những thế, trong cái công việc hằng ngày, trong sự chiến đấu hằng
giờ, đề bênh cho cái lợi quyền người ta phạm hại, giữ cho cái tự do người ta giày xéo, biểu
cái công đức người ta không biết đến, cáo
những sự tệ lạm của kẻ gian phạm, thiên hạ đều sợ hãi không ai dám nói, mà một mình mình nói to lên cho ai ai cũng biết, mình là
cái nhời ngôn luận tự do, mình là cái lương tâm không chịu
khuất nhục, đối với cái cường quyền nó áp chế người ta, để bênh vực cho kẻ công chúng, cho kè nghèo hèn, cho kẻ bị áp ức
khốn
khổ,
tựa hồ như mình là người võ sĩ của cái Công lý, nghiễm nhiên là một cái quyền thế đồi với cái quyền thế của kẻ có quyền, còn cái thiên chức nào hay bằng, quảng đại bằng, tôi thử hỏi một đời người còn cái mục đích nào cao thượng bằng cái mục đích ấy nữa không?”.
Quan Toàn
quyền
đã cực tả
cái thiên
chức
của
nhà làm bảo như
thế
thực
là
hết
nhời hết
ý, không còn
thể
nào nói
thêm cho bằng được
nữa. Cứ
mày nhời ấy
mà suy thì biết
nghề
bảo trọng là dường
nào, mà cái thế lực của nhà báo mạnh biết bao nhiêu! Thế lực ấy đủ chuyển dịch được lòng người, thay đổi được
cục diện, rèn đúc uốn nắn được cái vật vô hinh vô trạng gọi là cái Dư luận vậy.
Bởi đâu mà nhà
báo có
cái
thế lực như thế? Bởi nhà báo vừa biểu được mà lại vừa gây nên mối dư luận trong một nước. Ai nói đến báo là nói đến dư luận, ai hởi đến dư luận là tìm đến báo, báo với dư luận, dư luận với báo hai cái là lần lót, là hình ảnh cho
nhau, hai cái là tinh thần hình thức của nhau vậy. Vậy thì dư luận là cái gi? Lấy nhời giản dị mà
giải
thì
dư luận là ý kiến
chung của nhiều
người,
là cái tư tưởng
của công chúng. Cứ lấy ý kiên riêng của mỗi người thì dù hay dù phải đến đâu, cái hiệu
lực cũng là có hạn mà thôi; họp ý kiến của nhiều người thì dù sai dù nhảm đến đâu cái hiệu lực cũng có thể tăng đến vô cùng vậy. Chúng
bao giờ
vẫn có
thế
mạnh, dù khi cuồng dại cũng là mạnh hơn “cá nhân”. Bởi thế nên từ xưa
đến
nay các bậc đế vương
mưu việc trị bình trong thiên hạ đều vụ lấy được lòng
dân làm cốt nhất; được lòng dân tức là thu được cái thế mạnh của công chúng.
Xưa gọi “lòng
dân”,
tức nay gọi là “dư
luận”,
chỉ
khác xưa người
dân còn thuần
phác,
bằng
cả ở
cái
đức hóa của
các bậc đế vương,
chỉ
biết
đem tấm
lòng tin mà qui phục; nay dân trí đã mở mang, biết lấy sự suy nghĩ
mà bàn xét những nhẽ phải chăng, điều lợi hại trong nhân đoàn. Nhưng dù là “dân tâm”,
dù là “dư luận”, tên có khác mà
sự thực
cũng là
một, đều
là chỉ cái sức mạnh vô hình của phần nhiều người
trong một nước. Cái sức mạnh ấy xưa thuộc về tiêu cực, mà
nay bởi nhẽ tiến hóa dần dần chuyển ra tích cực. Còn thuộc về tiêu cực thì phải tùy ở một bọn
số
ít có
quyền chủ trương đốc trách, đã chuyển ra tích
cực thì tất
có tư cách suy xét mọi việc mà giám đồc được cả cái phần số ít kia.
Bởi thế nên
trong thời
đại này cái thế lực của dư luận đã bành trướng ra vô cùng, khiến cho có người đã
gọi
là cái “thời
đại riêng của dư luận”. Lắm nước
như nước
Pháp nước Anh, dư luận thực là giữ quyền chúa tể trong nước, chi phối cả mọi việc
thuộc về
chính trị,
xã hội...
Nhưng cái
sức mạnh như
thế
mà để
phó mặc cho một mình, không đoàn luyện, không tổ chức, không
đặt cho có phương
trâm,
có
định hướng, thì chẳng qua
cũng là cái sức
hỗn độn, vô tri vô giác, thế sao mà giúp được cho
cái trị thuật trong nhân quần?
Không những không giúp
được
mà có khi lại
sinh ra nhưng sự
biến
loạn, hại đến
cuộc trị bình.
Cái công đoàn luyện, tổ chức, đặt phương, định hướng cho dư luận ấy là thuộc về ai?
Tức là công của các nhà
báo vậy.
Lấy cái sức của dư luận mà rèn đúc cho dư luận, khiến cho không tản mạn đi mất mà
thành một khối
bền chặt, giúp được
cho cuộc sinh hoạt chung của một dân một nước, đó là cái nhiệm vụ
tối
cao của
các nhà làm báo. Báo bởi dư luận mà thành ra, mới có sức biến hóa được dư luận: cho
hay dư luận cũng như chơi kim cương, chỉ có mình mới giũa được mình vậy.
Nhthế thì báo vừa
biểu
được dư luận mà
lại vừa gây
nên dư luận, cái thế lực trong một dân một nước lại chẳng to tát
lắm sự?
Bởi
thế
nên
quan Toàn quyền
nói ngọn bút tờ báo là hai cái nguyên động lực rất mạnh, khá lấy mà biến hóa
được các dân
quần
xã hội, không phải là nói quá vậy. Bởi thê nên ngài lấy những
nhời
hùng tráng mà tả cái khoái lạc tuyệt trần của con nhà làm báo
trong những lúc đua tranh gắng gỏi, khi vẻ vang, khi sầu khổ, không phải là vẽ cho ta mơ màng một cái cảnh bồng tiên không thực vậy.
Cảnh ấy quả có thực,
nhưng chỉ
riêng để
cho những người nhiệt thành về nghề
báo, coi nghề báo là một thiên chức rất cao, mà tận tâm tận lực làm cho
trọn cái
thiên
chức ấy.
Ấy nghề
báo có cái nghĩa cao, cái thú lạ, cái sức mạnh như thế. Vậy nên dùng thế nào cho phải đường,
cho được
thực ích
lợi? Như xét riêng
về nước ta thi
nhà làm báo ở
nước Nam ngày
nay phải
làm thế nào
cho xứng đáng cái nghĩa vụ của minh?
Quan Toàn
quyền
khuyên các nhà báo nên tự nhiệm cải trách giáo dục cho dư luận trong nước. Như trên kia đã nói cái thế lực cùa dư luận mạnh là dường nào, thì đủ biết công
giáo dục ấy
không
phằi là không
quan trọng. Nhưng nước ta xưa nay chưa từng có dư luận bao giờ hoặc là cái dư luận chưa thành
hình. Vậy ta phải
gây
lấy một
nền
dư
luận trước đã. Việc đó không phải là việc dễ. Dân ta đương vào buổi dở dang, mới cũ giao nhau, khó lòng mà biết được
cái ý kiến
chung của
quốc
dân thế
nào. Phàm những vấn đề quan trọng ngày nay, thuộc về chính trị, giáo dục,
kinh tế,
xã hội, mỗi người xét ra một cách, mỗi người hiểu ra
một đường, mà phần
nhiều
người
thì hãy còn
mang nhiên chưa giải đầu đuôi ra làm
sao. Ấy
là nói
bọn thượng lưu trí
lhức, không
kể những bậc trung lưu hạ lưu,
cái
trình
độ lại còn kém nữa. Như thế mà muốn hội ý kiến của phần nhiều người để gây thành
một
mối
dư luận chung
có thế lực trong
nước,
có
thể ảnh hưởng đến các
công việc nhớn đề khuynh hướng về một đường nào, thì thực là khó thay.
Tuy vậy nếu biết thi thố
cho phải
đường,
cũng có thể thành được. Cốt nhất là nhà báo phải lập một
cái
chương trình phân minh, một cái chủ nghĩa nhất định, rồi cứ thi hành
cái công
“giáo
dục”
theo một chương trình, một chủ nghĩa ấy. Đương buổi quốc dân còn phân vân
chưa biết
theo đường nào là phải, ta nên suy xét trước sau mà
quyết
định lấy
một cái đường
lối
chính
đáng, cứ thế
mà đi, không hề thay đổi. Phàm lập ngôn khởi luận cũng cứ theo một đường ấy, khiến cho quốc dân hằng phải chú ý
vào đây,
rồi tất
có ngày khuynh hướng mà theo vào với ta. Như thế dần dần gây lên
một cái tự trào, trước nhỏ sau nhớn, gồm cả những người cùng một ý kiến, cùng
một tư tưởng như mình,
tức là nhóm thành một nền dư luận về sau vậy. Đến khi cái dư luận ấy đã đủ có thế lực thì bấy giờ mới có thể mong ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt trong nước, mà giúp cho thực hành được
những sự nghiệp hay.
Nhưng hiện nay dư luận chưa thành, trách nhiệm của nhà làm
báo lại
càng trọng
lắm nữa. Buổi này mới là buổi nên hết sức thi hành cái công giáo dục
như quan Toàn quyền đã khuyên bọn ta trong bài diễn thuyết.
Dân An Nam ngày
nay thực là đương gặp một cái cảnh ngộ đặc biệt.
Vốn
là một dân
cổ,
từ xưa vẫn có
một nền
văn
minh học thuật riêng, dù sinh trưởng phát đạt
trong một cuộc lịch sử mấy nghìn năm ; hốt nhiên phải ra đối đãi với một thế giới mới, xưa nay chưa từng biết bao giờ, thành
ra mang nhiên không
hiểu
một tí gì, nhất
thiết phải
học cả,
như người học trò mới vào
trường. May nhờ có nhà nước Đại Pháp sang bảo hộ, đã phá đường mở lối cho lúc
ban
đầu,
nên nay đã ràng rạng biết một đôi chút.
Nhưng chẳng
qua cũng mới có
một phần
ít người là được hưởng cái công giáo hóa của Nhà nước mà thôi.
Còn phần
nhiều
người
trong quôc dân,
trinh độ
hãy còn
kém lắm,
chưa hiểu được
chính sách của Nhà
nước,
chưa biết
những việc ích
lợi
nhà
nước
trù tính mưu toan
cho xứ ta. Vậy thì
cái
nhiệm vụ tối
thiết của các nhà báo là phải làm người đứng giữa
mà giãi bày ban bố những mưu hay chước phải của Nhà nước cho phần nhiều người ấy được biết, cùng thay mặt
quốc
dân
mà
trinh bày cho Nhà nước rõ cái chân tình trong nước và những điều sở nguyện
của người dân.
Nếu
các nhà báo biết
khéo điều
hòa trên
dưới mà làm trọn được cái
nhiệm vụ ấy
thì cái công
giúp cho việc chính trị không phải là nhỏ vậy.
Các nhà
báo không những là có thể giúp cho việc chính trị ngay bây giờ, mà
lại còn
có
thể
mở đường
cho việc chính trị về sau nữa. Bởi sao vậy? Quan Toàn quyền đã nói dân ta là một dân đương biến cải, mỗi ngày tất mỗi khác, mỗi ngày tất xuất hiện ra
những vấn
đề
mới
cần
phải giải quyết cho xuôi. Nhưng nếu đợi cho đến khi những vấn đề ấy đã xuất hiện ra
rồi
mới tìm
đường giải
quyết
thì kịp sao được?
Đã hay rằng cái trách nhiệm của các nhà chính trị là phải dự liệu trước mọi việc,
nhưng các nhà báo được trực tiếp với dư luận phải dọn
đường mở lối sẵn thì nhà chính trị thi thố mới được ích lợi. Như thế thì cái công của các nhà báo đối với sự tương lai
lại chẳng to tát lắm rư?
Nước Nam
ta sau này hay hay dở các
nhà báo cúng có một phần vào đây. Nếu ta biết khéo dùng cái nguyên động lực rất mạnh
là tờ báo ngọn bút kia, như nhời quan Toàn quyền nói, mà gây thành được một cái dư luận sáng suốt khôn ngoan, thông hiểu tình thế, giúp được cho cái công chính trị giáo dục của Nhà nước, thì ta mới
trọn nghĩa vụ đối với
chính phủ, đối với quốc dân,
và xứng đáng cái thiên chức nhà làm báo vậy./.
Thượng Chi
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét