Khiemnguyen

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

(2) Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920 -1930

(tiếp theo phần 1)

Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương giải phóng phụ nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết : Việt Nam phụ nữ liệt truyện // PNTV 2/5/1929; 13/6; 4/7; 1/8; 8/8; 15/8; 12/9/1929; Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do // PNTV 12/9/1929; Chữ trinh: cái tiết với cái nết // PNTV 19/9/1929; Luận về phụ nữ tự sát // PNTV 26/9/1929...v v
Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim // PNTV 29/5/1930; Cảnh cáo các nhà học phiệt // PNTV 24/7/1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,... lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra.
Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,...
Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam.
Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người anh rể là Lê Dư trong chuyện “nước ta có quốc học”, mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử  và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (PNTV 29/11/1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13/12/1934).
Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn đóng kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v...), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với nhiều loại việc, từ việc đề xuất “viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng”(PNTV 12/6/1930), “đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam”(PNTV 26/6/1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi // PNTV 11/6/1931), phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24/3/1932),...
Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong cho mình “vai ngự sử trên đàn văn”. Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu “tạp trở” về đủ thứ chuyện cổ kim đông tây.
Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn [từ 23/10 đến 30/11/1930] đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò “thày đồ” dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu [phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre] của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18/8 đến 29/12/1932, sau nữa Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-1937).
Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại (Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật // PNTV 30/7/1931; Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký // PNTV 23/6/1932; Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan // PNTV 15/9/1932; Cái địa vị khôi hài trên đàn văn // PNTV 3/11/1932; Sử với tiểu thuyết // PNTV 1/12/1932; Lối văn học của bình dân // PNTV 15/12/1932), về văn chương và nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân // PNTV 4/2/1932; Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích // PNTV 18/8/1932; Cái bịnh ăn cắp của Tàu // PNTV 1/9/1932; Văn học chữ Hán của nước ta // PNTV 22/9/1932; Sách tiếu lâm đời xưa // PNTV 22/12/1932).
Tất nhiên trong số đó ta không thể quên bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (PNTV 10/3/1932), bài báo được coi như lời phát động cho phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này.
Thế nhưng nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh[1] đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi “duy tân”, “cải lương” trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1928-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào Thơ mới. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam thấy nhận định này là hữu lý.
Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao “học bổng phụ nữ” cho học sinh đi du học sang Pháp.
Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.
Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, Sđd) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, “tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa” (Sđd, tr.398).
Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theo Huỳnh Văn Tòng, Sđd, tr.411).

Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về...
Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.
Vậy mà tới giữa năm 1930, cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ lại đến với tờ Trung lập. Có điều gì xảy ra đây?
Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thần chung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấp tiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này.
Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủ nhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủ bút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này để cho ngòi bút ngả theo ý hướng của ông chủ Tây của tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệp người Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932, sau nhiều thay đổi thì hai ông chủ cũ của Thần chung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đã đổi chủ.
Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồi làm chủ bút Đuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở Hà Nội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trung lập.
Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí Đông Dương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhóm tài phiệt Octave Homberg mua các tờ Impartial và Trung lập rồi về sau bỏ rơi khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh và bước vào chính trường; sự “bỏ rơi” này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhân dẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933 (Sđd, tr.409-413).
 Từ  sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự “bỏ rơi” kia là sự thực thì vẫn cần tìm hiểu thêm về hoạt động của giới quản trị và kinh doanh báo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, - chính điều này tạo ra diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây là trường hợp của cả tờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trong những năm 1930.
Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13/8/1929, vai trò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạn thông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng ra cho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, có khuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ[2].
Chẵn một năm sau ngày 2/5/1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn), báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho là cũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2/5/1930 chính thức ra mắt tờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú “bộ mới” hay “tục bản”, không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới (chữ “trung lập” màu đỏ với các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef).
Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêng của ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không đứng trong toà soạn, tuy có lúc bài ông viết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm “Những điều nghe thấy” mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục “Những điều nghe thấy”.

Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày ở Đông Pháp thời báo và Thần chung, tôi có dẫn khái niệm “mặt nạ tác giả”, một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ “thi pháp” của cái “tôi” trong vai lệch ở tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sự việc thực mà hoá ra lại liên quan đến khái niệm ấy.
Đó là từ giữa năm 1932, sau khi “Hội chợ Phụ nữ” ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hội Dục anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sự không hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xé  ra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà.
Một nửa báo giới Sài Gòn do Tổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sài thành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữ tân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ  Sài thành và Trung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiến Bùi Thế Mỹ, - người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúc sự việc mới phát lộ, - phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi.
Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tân văn, cũng thôi không còn ký tên mình đăng bài trên Trung lập nữa. Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đã để cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thế nhưng Thông Reo với chuyên mục “Những điều nghe thấy” thì vẫn xuất hiện đều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng, trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo cũng có những bài đồng tình với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là “con buôn hám lợi”.
Vậy là chính nhờ “mặt nạ tác giả” đó, trang viết của Phan Khôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tên thật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không thể hoặc không nên xuất hiện (Xin nói thêm: chuyện “mặt nạ tác giả” nói ở đây là chuyện nghề nghiệp hơn là chuyện đạo đức).
Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập - Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến dấu mặt im lặng...).
Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra.
Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến...) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài Ý kiến Trung lập: Phải nói minh bạch // TL 20/6/1930, qua một loạt bài: Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử ?// TL 21/6/1930; Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu // TL 23/6/1930; Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào? // TL 24/6/1930; 4 bài nhỏ: Ai nói dối?; Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long; Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ; “Kiến hiền tư tề yên” đều in trên Trung lập ngày 25/6/1930, v.v… đến loạt bài Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi [kỳ I - IV] từ 26/6/1930 đến 30/6/1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2/7/1930, đến kỳ XIII, 25/7/1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...).
Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nội dung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giá hơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại.
Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929, chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bút chiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoán chắc là do Phan Khôi viết); có thể nghĩ rằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dung trong ý niệm.
Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hình dung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình.
Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài Viếng mộ ông Lê Chất của Phan Khôi rồi viết rằng “người mình có cái tật “vì người mà bỏ lời nói” nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến”, tức là mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là “đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo”, “làm xấu trong trường ngôn luận” (Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm “Đuốc nhà Nam” // TL 19/7/1930; Một sự buồn trong báo giới // TL 21/7; 24/7; 1/8/1930).
Xin kể thêm một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan đề Vấn đề cải cách (TL 9/8; 12/8; 13/8; 18/8/1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: “muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước”; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.
Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được “Phụ trương văn chương”, thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được “Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2/5/1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2/5/1931 đến 29/5/1933 ra được cả thảy 104 kỳ.
Ở mỗi kỳ, ngoài những mục như “Văn uyển” đăng sáng tác thơ, mục “Giấy thừa mực vụn” đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam của Bùi Kỷ từ PTVC số 8: 20/6/1931, đến PTVC số 13: 25/7/1931), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như “đạo văn” (Cao Minh Chiếm PTVC số 41: 13/2/1932, “tố giác cái án đạo văn” nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47: 26/3/1932 nhận thấy họ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48: 2/4/1932 giải rõ thế nào là “đạo văn” và xác định những trường hợp ấy không phải là “đạo văn”), hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá[3], v.v...
Chính ở “Phụ trương văn chương” số 2 (TL 9/5/1931) một tác giả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận sau này vào năm 1936).
Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của một cây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bài giới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như: văn học và quốc dân tính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, văn học bình dân, khái niệm “trào lưu”, về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert, nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷ hử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai... Đây cũng là một trong số những tác giả hiện vẫn còn đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đây lẫn ở quê gốc của mình.
Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũng gần với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, và cũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ khác cũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về “quốc học” với Lê Dư....
Riêng ở Trung lập Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người khởi lên cuộc bài xích lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ Việt Nam tân tự điển của hội Khai trí Tiến đức...
Ông không chỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31/12/1931; số 37: 9/1/1932).
“Phụ trương văn chương” của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai... Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục “Những điều nghe thấy” chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không có báo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiều loại đề tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chương nghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tác đương thời.
Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn.
Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trên tờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từng đăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nói về văn học chữ Hán của người Việt[4]. Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.
Trên đây là sơ lược về hai thời kỳ Phan Khôi tham gia báo chí văn chương tại Sài Gòn. Giữa năm 1933, ông ra Bắc cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Giữa năm 1934 ông cùng Bùi Huy Tín vào Huế lập hai tờ báo đều do Bùi Huy Tín làm chủ nhiệm: tờ Tràng An tiếng Việt (Phan Khôi là chủ bút) và tờ La Gazzett de Hue tiếng Pháp; tháng 8/1936 Phan Khôi sáng lập và điều hành tờ Sông Hương, tờ báo đầu tiên mà ông là chủ trong đời mình.
Năm 1937, sau khi nhượng tờ Sông Hương ở Huế này cho nhóm cộng sản của Phan Đăng Lưu, theo một nguồn tài liệu (Phan Cừ, Phan An, 1996, Sđd), Phan Khôi lại vào Sài Gòn, nhưng không  biết ông có cộng tác với tờ báo nào tại đây hay không. Do đó cũng chưa rõ ông có một thời kỳ thứ ba làm việc với văn chương báo chí Sài Gòn nữa hay không? Tôi chưa tìm hiểu được kỹ điều này nhưng ngờ rằng không có.
                                                                                                      Hà Nội, tháng Ba 2006
Nguồn:http://kienthuc.net.vn/kim-chi-da-lua/phan-khoi-va-bao-chi-sai-gon-nhung-nam-19201930-37294.html 


[1] Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865-1932), [in lại có sửa so với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM: Nxb. TP HCM, 1992, tr.235
[2] Chi tiết hơn xin xem: Tiểu dẫn [trong sách] Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo1930 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn, 2005, tr.8-14.
[3] Xem thêm: Lại Nguyên Ân: Vài tư liệu về việc Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toà năm 1932 // Tiền phong, 5/11/2005; Thế giới mới, s.660 (7/11/2005).
[4] Phan Khôi: Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta // Tao đàn, Hà Nội, s.1, 1 Mars 1939, tr.13-18; s.2, 16 Mars 1939, tr.107-114; dẫn theo Sưu tập trọn bộ TAO ĐÀN 1939, / Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm / Hà Nội: Nxb. Văn học, 1998.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét