|
(Đăng trên Phụ nữ Tân văn
– số 95, ngày 13/8/1931)
|
Cũng như ông Phan Khôi, ông Nguyễn Khắc Hiếu ở về phái nhà nho. Mà đây là
nhà nho đặc, nhà nhà thuần túy, nhà nho sùng ông Khổng, tôn ông Khổng, nhà nho không hay
xài đến “luận lý học”, cũng ít nói
đến “mâu thuần thuyết” như ông Phan. Ngoài ra, Tản Đà tiên sanh lại ngông hơn ai hết. Đời đục, tiên sanh trong; đời tối, tiên sanh sáng; đời quay cuồng trong nhơn dục tư lợi, tiên sinh ở thế giới tinh thần.
Cái đặc sắc trong người tiên sanh là
cái “tình”, cái tình nặng, cái tình sâu, cái tình mộng ảo, cái tình nên thơ, cái tình
cùng với non nước cỏ cây mà dung hòa họa vận,
cái tình cùng với thể đạo nhơn tâm mà nên dọng chua cay.
Tản Đà tiên sanh là một nhà thi sĩ vậy.
Ông đã có khí tiết thanh cao, lại có cái tâm hồn lãng mạn; đã có cái tánh tình đa cảm lại có cái viết nên thơ. Lamartine người ta đã từng gọi “thơ sống”, thì ông Tản Đà nay cũng có thể gọi là “người thơ”. Duy khác, là Lamartine đã từng phải ngây ngất trong cõi tình trường, triền miên trong vòng
thương nhớ, mà mới nảy ra cái dọng bi thiết tiêu tao. Mà ông Tản Đà chỉ dan diếu với người trong mộng, bắt tình với kẻ đâu đâu, rồi cũng thương, cũng nhớ, cũng
biệt, cũng ly, cũng nảy lên những áng văn đậm đà tình tứ, khiến cho độc giả phải
yêu ông, phải mến ông, vui ở cái đời mộng ảo của ông, mà cùng ông khăng khít
biết bao tình! Đời ông cứ thế, ai bảo là không có ích cho người đời?
Đã đành, đời không phải là mộng, mà người
đời cũng còn nhiều công việc phải làm. Nhưng thế giới cạnh tranh, nhơn loại
tiến hóa, mà cái “cõi lòng” của nhơn sanh nó vẫn
chỉ thế thôi. Trong cõi lòng đó, từ thượng cổ đến nay, những sự bi
thương oán cảm, những điều khoái lạc an vui, không bao giờ là
không có mà cũng không hao giờ là không sanh. Thương ai mà ngậm ngùi? Nhớ ai mà thơ thẩn? Mất ai mà đau lòng? Cùng vui sướng? Ta không có văn tài mà tả diễn được ra thì nhà thi sĩ chính là đã giúp ta mà cho ta
coi được tới cái cõi lòng của ta vậy.
Trong cái đời quay cuồng vật chất này, đã có người cùng ta họa cái bản đờn của “trái tim” mà cùng làm bạn với ta ở trong thế giới tinh thần, há chẳng khiến cho đời ta đưọc êm đềm
cao thượng lên ru? Cái công ơn của Tản Đà tiên sanh đốì với đời là thế.
Vậy mà ông chẳng thèm nhận chân lấy cái địa vị đặc biệt của ông ở trong văn giới nước nhà. Con đưòng mà tạo hóa đã vạch sẵn cho ông, ông không
chịu đi, lại chỉ định tự vạch lấy con đường nó đưa ông đến chỗ thất bại mà thôi.
Thiệt vậy. Từ đã lâu, ông chỉ nuôi có cái hi vọng làm một nhà “văn học kiêm
triết học” mà rồi nay ông bôn tẩu theo nghề làm báo, mai ông vận động ra tạp chí “Annam”. Ông lầm đường rồi, ông ơi! Ông mà chạy theo văn
học, thì cái thi cảm của ông nó tất phải lên mây[1]. Và nếu ông cứ mài miệt triết học thì cái đời của ông nó cũng là hết mộng.
Cái kiến thức, ở một nhà văn học, phải cần cho quảng bác; ở một nhà triết học, phải cần cho
tinh vi; ở một nhà ngôn luận, phải cần cho thiết thực; ở một nhà trước tác phải cần
cho phân minh. Mà muốn cầu lấy một cái kiến thức quảng bác, tinh vi, phân minh, thiết thực ở
một nhà thi sĩ thì một là không thể có đưọc, hai là cái bỗn ngã (le moi) của nhà thi sĩ phải mất đi đế
thay một cái bổn ngã khác vào.
Đối với những bực học giả, ngôn luận chân chánh trong nước, không biết ông có ngày theo kịp không, mà riêng đối với ông, ông
đã tự giết một nhà thi sĩ thân yêu của quốc dân vậy.
“Annam tạp chí” nay là của ông
Nguyễn Khắc Hiếu nào, chớ có phải là của ông Nguyễn Khắc Hiếu, tác giả những quyển “Giấc mộng con”, quyển “Tản Đà tùng văn”, quyển “Khối tình con” nữa đâu?
Nhà thi sĩ đã chết rồi. Nhà ngôn
luận ta chưa thấy.
Những bài xã thuyết, luận thuyết, cho đến những bài khảo cứu, hài văn ở trong “cái cơ quan tiến thủ của quốc dân” ấy, tôi không thấy nó đưọc mới mẻ như của ông Phạm Quỳnh, thâm thúy như của ông Phan Khôi,
hoặc giắn giỏi như của cụ Nguyễn Bá Học, hoặc có duyên như Hi đình Nguyễn Văn Tôi. Mà những bài
thơ, bài văn, như hát, như đờn, như mơ
màng trong cõi mộng, như dọng nói của trái tim, nay tìm đâu cho thấy!
Mà phải. Đã chủ trương một cơ quan ngôn luận, lý ưng phải có cái dọng văn dạy đời. Song nếu cái
nghề dạy đời nó không phải là cái sở trường của ông, thì sao ông không lại “ru đời” là cái việc của tạo hóa đã trao cho
ông mà chúng tôi cũng trông mong ở ông vậy?
Nhà thi sĩ thân yêu của quốc dân biết ngày nào lại
trở lại với chúng tôi?
Nếu thiệt ông không phụ tình chúng tôi, thì trong
thi học sử sau này của nước nhà, hẳn ông cũng chiếm được một cái địa vị vẻ vang vậy./.
|
Thiếu Sơn
|
[1] Nếu nói như tác giả đấy, thì sự làm thi chẳng ngoài cái phạm vi văn học hay sao? Tôi tưởng không có lẽ thế. Văn học là một cái danh
từ có dung tích, nó bao gồm cả tản văn, thi ca, tiểu thuỵết, kịch bổn vào trong nó. Vậy thì
một người nếu có chí về văn học, chưa ắt là có hại cho sự làm thi của mình, bởi vì trong
khí đó, người ấy cũng không bỏ nghề thi vậy. Phải chi tác giả nói người ấy chuyên tâm theo tản văn, tiểu thuyết, kịch bổn, nên có hại đến nghề làm thi của mình, thì nghe xuôi nghĩa hơn.
Lại trong câu nầy, chữ “lên mây” hình như có kỳ nghĩa (sens équivoque).
Cứ theo ý trong câu thì “lên mây” là cái thi cảm tiêu diệt đi, bay lên theo mây khói; nhưng sau
chữ “thi cảm” mà hạ chữ “lên mây”, người ta há không có thể hiểu là cái thi cảm cao siêu, lên đến tận trên mây xanh sao? Đó là tác giã muốn dùng chữ cho bóng bẩy, nhưng vì đó trở kém sự rõ đi. Theo ý tôi thì trước
phải cầu cho rõ rồi sau mới đến bóng bảy. Lời phụ chú này là tôi bàn riêng với tác giả - cũng với độc giả - về phương diện làm văn chút đỉnh mà chơi; chớ không xâm phạm một mảy nào trong sự phê
bình ông Nguỵễn Khắc Hiếu hết. - P.K. (có
thể là của Phan Khôi? – NBK)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét