CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là
một phong cách chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng “phong
cách là những khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói
quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây
dựng các lớp văn bản tiêu biểu"[1],
người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để khẳng
định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng
với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa học,
phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách
chính luận.
Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí?
Các nhà nghiên cứu đã có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của
phong cách báo chí (như tính chiến đấu,
tính thời sự, tính hấp dẫn), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí thuộc các
phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đây
phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế
chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách
ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.
Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong
cách báo chí bao gồm:
1. Chức năng thông báo,
2. Chức năng hướng dẫn dư luận,
3.Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng,
4. Tính chiến đấu mạnh mẽ,
5. Tính thẩm mỹ và giáo dục,
6. Tính hấp dẫn và thuyết phục,
7. Tính ngắn gọn và biểu cảm,
8. Đặc điểm về cách dùng từ ngữ (gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn
biểu cảm ).
Dễ dàng nhận thấy là Hữu Đạt không có sự phân định rõ
ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về
ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8
đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và thứ bảy
là có vẻ xác đáng hơn cả. Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc
cũng như Hữu Đạt cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ
đều xuất phát từ góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính
chức năng chứ không phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu
đạt có tính đặc thù của từng loại hình sáng tạo. Như chúng ta đều biết,
chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin. Báo
chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện. Không có sự kiện thì không thể có
tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ
báo chí là có tính sự kiện. Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ
báo chí một loạt các tính chất cụ thể như:
1. Tính chính xác:
Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm
tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ
suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai
thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng không
lường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang
thăm Trung Quốc, một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong đó có câu: “Chúng
tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt - Trung". Rõ
ràng, từ “với” ở đây là không thể chấp nhận được (vì cụm từ “chia tay với...”
biểu đạt ý nghĩa “từ bỏ, từ giã”), cần phải thay nó bằng từ “trong”. Muốn sử
dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu cầu. Thứ
nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có vốn
từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ âm; hiểu biết
về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để phản
ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua lại hết sức
mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể “kêu” nhưng rỗng
tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ
đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì cũng
không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi
khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác,
nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào
việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản
phẩm của báo chí đông tới mức không xác định được và họ (nhất là trẻ em) lại
luôn xem các cơ quan báo chí là “ngọn đèn chỉ dẫn” trong việc dùng ngôn từ, cho
nên ngôn ngữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát
triển.
2. Tính cụ thể:
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện
ở chỗ cái mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải
cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác
mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói
tới trong tác phẩm của mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự “Hai giờ dưới
lòng đất” của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng:
“...Tôi cố nén
sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm địa đạo Củ
Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ đi. Hai
tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đầu vào đá. Tôi nghĩ
bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu
rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có tiếng nước róc rách.Đường lò
ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. “Bám vào, ngửa người
ra, tụt xuống!”. Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh
vẫn đi sát tôi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý “cho nhà báo có thêm
thực tế”. Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: “Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ
Mông Dương đấy!”. Dễ nhất! tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài xe
goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang…”.
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo
dựng nhờ sự miêu tả một loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả.
Khi đọc đoạn văn trên, độc giả thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành
trình đầy gian nan, vất vả dưới lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm
cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc trong công việc của những người thợ lò.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn
nằm ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho
thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một
không gian, thời gian xác định; với những con người cũng xác định (có tên tuổi,
nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể). Đây là cội nguồn của sự thuyết
phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ
dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ,
cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như "một người nào đó”,
"ở một nơi nào đó", "vào khoảng", "hình như",...
3. Tính đại chúng:
Báo chí là
phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội, không phụ thuộc
vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính..., đều
là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông
tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo
chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập
rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp
kém. Vì, nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G.
Kostomarov: “Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một
nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé
có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu”[2].
Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn hẹp
nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng lớp
quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho trong
tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ ngữ
địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.
4. Tính ngắn gọn:
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng
có thể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc,
người nghe. Thêm vào đó, nó còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho
người viết, vì anh ta sẽ không đáp ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp
thời; cho người đọc (người nghe) vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta
luôn cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt.
Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau,
nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ (thực tế khảo sát của chúng tôi cho
thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác phẩm báo chí có
liên quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các
thành phần chính của câu). Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov
có lẽ chính xác hơn cả với phong cách ngôn ngữ báo chí: "Ngắn
gọn là chị của thành công”
5. Tính định lượng:
Các tác phẩm
báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn trong một
khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp
các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ lượng sự
kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và thời gian. Hiện tại,
không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không được phép
vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài “không đặt trước” biên tập
viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay trong
số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối tượng
dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết một hay
một số văn bản với độ dài cho sẵn. Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp
cho nhà báo rèn luyện được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ
đó, họ có thể dễ dàng thích nghi với mọi điều kiện thời gian cũng như không
gian được dành cho việc công bố chúng.
6. Tính bình giá:
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các
sự kiện, mà còn phải thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện
thông qua sự bình giá (có lẽ trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin
ngắn là không có tính bình giá, tức là tác giả thể hiện sắc thái biểu cảm trung
tính). Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng có thể là tiêu cực, song
trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngôn từ. Chẳng
hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ tiêu đề
như: "Góc tối ở thành phố cảng”, “Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây Bắc”, “Lặng
lẽ quá ... liên hoan phim”, “Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ”,”Đó cũng là
một cách sống đẹp” ... Còn trong các phần khác (cả mở đầu, triển khai lẫn kết
thúc) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường xuyên
hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...
7. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với
việc sử dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân,
và do đó sinh động hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả.
Ví dụ: “Ở những “cua” cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò
cắm cổ chép như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là “chuyện
thường ngày ở huyện” (Hà Nội mới cuối tuần, 18/4/1998); “Sông Tô mà không lịch”
(Văn hoá, 17/5/1999). Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo
chí là vô cùng phong phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục
ngữ, ca dao..., là sự vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác
phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ,nói lái, dùng ẩn dụ, v. v... hay
chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính chất cá nhân. Nếu ngôn ngữ
báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó chuyển tải khó
có thể được công chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới chỉ tác động vào
lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn mới là
nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc,làm cho
họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện những
hành động mà người viết vẫn chờ đợi.
8. Tính khuôn mẫu:
Trước hết,
cần phải làm rõ khái niệm “khuôn mẫu”. Đó là những công thức ngôn từ có sẵn,
được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin, làm cho nó
trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc
thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt trong nhiều phong
cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo chí, khi viết các
mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như: - Theo AFP, ngày... tại.. .trong cuộc gặp gỡ... Tổng Bí thư...đã kêu gọi... - TTXVN,
ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết... Giao tiếp báo chí không
thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo,
thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời. Song, khác với khuôn mẫu trong
văn bản hành chính và văn bản khoa học, khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất
di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển. Chẳng hạn, một thông tin trên báo về
nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cáigì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại
sao? nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó có thể được sắp xếp khác
nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Bên cạnh đó, các thành tố
khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp hài hoà với các thành tố biểu
cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường rất mềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như
ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản hành chính, là nơi người ta chỉ sử
dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
PGS. TS Hoàng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét