Đọc
sách: Văn học Việt Nam
1900 – 1945
(Nhà
Xuất bản Giáo dục)
|
Chương XIII
(1892
- 1954)
|
III. TIỂU PHẨM VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ
Những
người viết báo kỳ cựu ở nước ta
từ những năm 20
của thế kỷ này, không ai có thể quên được cái tên Ngô Tất Tố, một cây bút chiến đấu già dặn và sắc
bén, đã một
thời tung hoành trên các báo Hà Nội, Sài Gòn. Ngô Tất Tố đã từng tham gia viết Annam
tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Phổ
thông, Đông
Phương, Thực nghiệp, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Con Ong, Tương lai, Việt
nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Đông thanh, Trung bắc chủ nhật, Thời vụ, Hà Nội tân văn... với
các biệt hiệu quen thuộc như Thiết Khẩu Nhi, Thục Điểu, Dân chơi, Lộc Hà, Lộc
Đỉnh, Thôn Dân, Phó Chi, Ngô Công, Tuệ Nhỡn, Côi Giang, Thuyết Hải, Xuân Trào, Đạm Hiên, Hy Cừ...
Ngô Tất
Tố chuyên
sử dụng một loại văn tiểu phẩm để vạch những chuyện chướng tai gai mắt, những
chuyện bất công ngang trái trong xã hội cũ. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đứng về mặt thể loại, gần gũi phần nào với tạp văn của Lỗ Tấn đăng
đều trên tạp chí Tần thanh niên
từ 1918. Loại văn châm biếm này phù hợp với yêu cầu kịp thời, gọn nhẹ, súc tích của
thể loại văn học chiến đấu trên báo chí hàng ngày, khuổn khổ của nó phù hợp với điều kiện thì giờ của cả người viết
lẫn người đọc. Các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa mang tính chất của một bài bình
luận thời sự chính trị, bình luận xã hội, nhưng đồng thời cũng là một tác phẩm văn
học. Do đó nó vừa phải có sức thuyết phục logíc, có căn cứ và lập luận chặt chẽ, vừa phải xây dựng được những hình tượng và có một sức truyền cảm mạnh mẽ, sâu
sắc đối
với người đọc.
Văn
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dường như làm thành một bộ sử biên niên của xã hội
Việt Nam những năm từ trước sau 1930 cho đến hồi Đại chiến lần thứ hai. Như một chứng nhân trung thành của thời
đại, bằng nghệ thuật tiểu phẩm, Ngô Tất Tố ghi lại cho chúng ta những sự kiện
chính trị
quan trọng trong nước thời kỳ đó: phong trào Đông Dương đại hội với những cuộc biểu tình rấm rộ đón “lao công đại
sứ” (hết 395) Godart
ở các thành phố Bắc Kỳ,
phong trào Mặt trận Dân chủ với những cuộc đấu tranh của báo giới đòi tự do ngôn luận, tự do
hội họp, những cuộc đình
công khổng lồ của “lao
động Đông Dương”, từ “phu phen
thuyền thợ” cho
đến “mấy
nghìn phu xe Hà Nội” để
đòi tăng lương, những cuộc biểu tình của nông dân
Thanh Hóa và
những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ của hàng ngàn nông dân Bạc Liêu, Rạch Giá... Ngô Tất Tố cũng lên án “chính sách độc tài của Hítle”, những “thủ đoạn chuyên chế của Muýtxôlini” và cái thói “tàn bạo của bọn quân phiệt Nhật Bản”.
Toàn bộ tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố làm
thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam những năm trước Cách mạng
tháng Tám, nó
đã cung cấp cho chúng ta những tài liệu quý giá về văn học, sử học,
xã hội
học, dân tộc học (phong phú nhất là những tài liệu vê nông thôn và
nông dân Việt Nam).
Văn
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng là một phòng triển lãm những bức chân dung được phác thảo
theo kiểu biếm họa của giai cấp thống trị và những kiểu người điển hình trong
xã hội cũ. Ngày nay thanh niên đọc tiểu phẩm của Ngô Tất Tố có thể không biết rõ lý
lịch của những tên như “Tholance đại nhân”, Thủ
hiến Bắc Kỳ, Pagès, Thống đốc Nam Kỳ, Võ
hiến
Hoàng Trọng Phu, Bắc Kỳ nghị trưởng Phạm Huy Lục, “Bắc Kỳ nghị
trưởng Lê me xừ”, “Bùi Quang
Chiêu đại nhân”, lãnh
tụ đảng Lập hiến hữu danh vô hình ở Nam Kỳ và cuối cùng là những nhân vật với những tên dài lòng thòng
như dây muống: “Hiệp
tá đại học sĩ sung Bắc Kỳ
Phật giáo hội hội trưởng, kiêm Hà Nội Quán Sứ tự trụ trì Nguyễn Năng Quốc đại
nhân” hoặc “Tiên sinh Phạm
Quỳnh tức ông chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, tức ông Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức,
tức ông thư ký của Hội đồng kinh tế và tài chính Đông Dương, tức người sáng lập ra cái “hiến pháp tam giác”[1].
Tuy
nhiên,
điều đó không quan trọng
vì tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố phê phán những nhân vật điển hình trong xã
hội thực dân phong kiến chứ không phải là một bộ “văn tuyển chửi người” nhằm trả thù và thóa mạ cá nhân. Tên của những nhân vật nói trên
có thể
coi như những danh từ chung chỉ bọn tai to mặt lớn, bọn vẫn xưng là quý tộc
thượng lưu
đương thời. Lý lịch cá nhân của chúng nhiều khi chúng ta không cần tra cứu, chỉ biết đó là “những
tài chủ, nghiệp chủ, điền chủ, cùng những danh công đại thương”, “những quan lại
công
chức người Pháp” giàu
có phởn
phơ trên “cái xứ
bờ xôi ruộng mật này”; đó là
“những người đóng vai ông
chủ, từ chủ hầm mỏ
trở đi, phần
nhiều là bậc (hết 396)
“ăn chó cả lông, ăn hồng cả
hột” chẳng
có khi
nào bỗng nhiên vô cớ lại động dại mà tăng lương cho một người nào”; đó là những hạng
con buôn, “ngoài những kẻ
buôn
thuốc phiện lậu, buôn giấy
bạc giả, buôn dân, buôn nước, buôn thị trường, cũng có lắm kẻ
nghĩ ra nghề buôn tôn giáo
mà đại phát tài”; đó là những ông “dân biểu đương
thứ”, trên
đầu treo
cái án “bốn
năm đằng
đẵng không làm
cho dân việc gi” mà
còn “dùng
nghị trường làm nơi tranh việc thầu khoán, tranh mối hàng buôn, làm chỗ lấy lòng chính phủ để mưu việc tư lợi”; đó là “những chiếc
mặt” hội
viên thành phố, “không phải chỉ
để bày cho đủ lệ bộ ở tòa đốc lý”, “không như những
mặt nạ ở rạp Quảng Lạc chỉ để xem chơi cho vui”; đó là “những
ông không thèm biết chủ nghĩa xã hội là gì” nhưng cũng cứ xin vào chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) để mượn tiếng tranh cử nghị viên, lường gạt quần chúng. “Phường trò ra
hề còn phải bôi một
lượt nhọ vào mặt chứ họ đóng vai đảng viên Xã hội không hề dính một tý sơn nào của Quốc tế thứ hai”. Đó là “một số rất lớn cụ lang,
ông lang, chú lang, anh lang đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư của nghề bịp”, “dao cầu của mấy thầy
chém người như chém ngóe”, “giết
người lấy của xong, các thầy liền mở thêm hiệu “xuất thần mã xa”, như
vậy vừa “được
lợi tiền bán thuốc”, “mà họ chết thì
thầy lại được cả tiền cho thuê xe đưa họ xuống dưới suối vàng”; đó là mấy mụ
đàn bà “buôn
son bán phấn, không chồng khống con, bây giờ tuy đã về già hết duyên mà
trong nhà cũng vẫn là nơi họp khách năm châu, chiêu người bốn giống", ấy
thế mà
một bọn nhà nho vô liêm sỉ dám ca ngợi loại đàn bà đó là “cõi tục cốt cách
tiên, hiếu hạnh sắc tài Chu thái hậu; người trần tâm tính Phật, nghi dung đức
lượng Tống nguyên phi”; đó là mấy kẻ làm
nghề thuốc
hạ bộ “xứng
đáng treo làm câu đối hai câu “Hán tự chẳng biết
Hán, Tây tự
đếch biết Tây” của ông Tú
Xương”, “mả tổ của hắn chỉ có ống thụt, không có quản bút”, ấy thế mà
dám “táo
bạo vác cái bằng sơ
học yếu lược để theo vợ vào làng báo”; cuối cùng đó là
những bậc “thượng
lưu vẫn vui vẻ khuyên vợ cắm sừng lên đầu mình, muốn chóng thăng quan
tiến chức còn cố cưới thêm nàng hấu để chuyên giúp mình vào việc đó nữa”, hóa ra “cái chuyện mọc
sừng... chẳng những họ không cho thế là nhục, họ còn lấy thế làm vinh nữa chứ”!
Vũ
Trọng Phụng đã từng tập hợp và tố cáo những bộ mặt đểu cáng bịp bợm của lũ công
giới và thương giới của bọn quan lại Pháp, Nam, trong cái ấp Tiểu vạn trường
thành của Nghị Hách, còn ở đây
Ngô Tất Tố lần lượt
điểm danh từng loại một, đóng cho chúng những dấu ấn nguyền rủa muốn đời để mỗi khi chúng ra cửa này
vào cửa kia, đeo mặt nạ dở trò đánh tráo lộn sòng thì quần chúng sẽ
vạch mặt chỉ trán (hết
397).
Ngay
từ đẩu những năm 30, Ngô Tất Tố đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực
phê phán. Với khí tiết của nhà nho yêu nước và tiến bộ sống gần quần chúng, với
trí tuệ sắc sảo
và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi bút châm biếm, Ngô Tất Tố đã tấn công vào
chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên một số vấn đề cơ bản, đã vạch trần những chính sách ngu dân, mị
dân và mọi thủ đoạn thâm độc nhằm làm cho thanh niên rơi vào tâm lý tự ty dân
tộc hoặc dần dần sa
vào con đường trụy lạc. Đó là phong trào “chấn
hưng Phật giáo” và
truyền bá
mê tín dị đoan (Kiều đất ở phố Hàng Trống; Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông nào đã? Họ lại kiếm
ăn vào nám
xương khô); phong trào
phục cổ, bảo tồn quổc
túy (Mười năm nữa báo chí Bác Kỳ sẽ cổ động đến thò lò quay
đất, Hỡi đồng bào
Việt Nam, chúng ta nên vẽ mình cho con cái chúng ta, Cái ngày quốc túy); phong trào “Âu hóa”, “vui vẻ trẻ
trung” (Xin nhờ Lơ Muya Cát Tường việc này nữa) và - những phong
trào cải lương, những thủ đoạn mị dân ở nông thôn và thành thị (Quan tỉnh Bắc Giang dối
với ba ngàn ca dân).
Bước
sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ, nhờ hậu thuẫn phong trào cách mạng của quần chúng và ảnh
hưởng của sách báo cộng sản, tư tưởng yêu nước của Ngô Tất Tố nhiều lúc được
thể hiện một cách mạnh mẽ, công khai trong các tác phẩm và ngòi bút
chiến đấu của ông ngày càng trở nên một vũ khí lợi hại, đánh thẳng vào bọn cướp
nước và bán nước. Trước 1936, tư tưỏng yêu nước của nhà văn chỉ được thể hiện
một cách gián tiếp qua việc phê phán bọn bồi bút nịnh Tây (Quỳnh,
Vĩnh), bọn mất gốc (Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai). Bùi Quang Chiêu đã đặt
tên cho tờ báo chữ Pháp của y là “Bản xứ
diễn đàn” (Tribune Indigène)! Ngô Tất Tố bình luận: “ở trong đất
nước mình, nói với
người nước mình, mà cũng dùng chữ “bản xứ” để
tặng cho mình hay tặng cho người cùng nước với mình, ấy là ngu dốt” (Hai ông Bùi
Quang Chiều, Nguyễn Phú Khai chàng phải là hết thảy người Việt Nam). Ông cũng công kích cái thói sùng ngoại, đặt biệt hiệu theo điển tích nước
ngoài (Thục Điểu chết), thờ thần cũng “ưa thần ngoại quốc”, “Quan Công có người thờ, Thiển Hậu có người thờ, cho đến
Mă Viện, Sầm Nghi Đống là kẻ thù với mình mà cũng có người vẫn thờ!”(Người Tàu gán cho mẹ
Tống Mỹ Linh sang Việt Nam).
Tư
tưởng yêu nước của Ngô Tất Tố được thể hiện da diết hơn trong các truyện và
tiểu thuyết lịch sử viết vào năm 1935 (Lịch sử Đề Thám, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ). Một
trong những hạn chế của văn học hiện thực phê phán là không trực tiếp
đánh thẳng vào
bọn thực dân cướp nước, kẻ thù số một của dân tộc. Trong những điều kiện mới của
thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố đã phần
nào khắc phục
được hạn chế nói trên. Ông trực tiếp lên án những luận điệu tuyên truyền lừa
bịp của bộ máy tuyên (hết 398) truyền thực dân
cũng như của lũ bồi bút
Quỳnh, Vĩnh về cái
gọi là “công
ơn khai hóa văn
minh của nước Đại Pháp đối với dân Annam”: “Chẳng ai dùng
đến chữ “đánh
chiếm”, người ta bảo đó là công cuộc
rất nhân đạo
của mấy nước
văn minh vì thiên chức mà khai hóa cho những dân tộc dã man... Trăm lần đúng cả trăm. Hễ mà mở miệng trước mặt lũ dân bị chinh phục, mấy ông văn minh
không bao
giờ quên cái
giọng chúa chan nhân nghĩa ấy. Tôi đương thành
tâm kính
phục cái nhân đạo của mấy ông đó và muốn tin rằng ở
trên đời này
chỉ có cuộc
khai hóa,
không bao giờ có cuộc
đánh chiếm. Thế nhưng tôi vẫn còn phân vân và tự hỏi thầm: “Nếu quả như vậy thì ra cái trận Âu châu đại chiến
1914 cũng do mấy ông Nhất-nhĩ-man định khai hóa cho nước Pháp à ?" (Vậy
thì Annam cũng phải có thuộc địa chứ). Để che giấu chính sách đàn áp và
phân biệt chủng tộc đối với người bản xứ, toàn quyền Brevièr và những
tên tư sản mại bản kiểu Bùi Quang Chiêu không ngớt rêu rao khẩu hiệu “Pháp - Việt đề huề”, “Pháp - Việt
hiệp tác thân thiện”. Nhưng,
theo Ngô Tất Tố, “một kẻ
nằm trên giường, một người nằm dưới đất, một kẻ
ăn thịt, một người gặm xương” thì làm thế nào mà thân thiện được? “Dân quê chúng tôi sống trong
cảnh u uất, tối tăm, chịu thiếu thốn chật hẹp về công
lý, nhân đạo đã quen”, nên
họ coi những “ông
Tầy”, “công chức của
chính phủ” là “những giống
sài lang bạo ngược. Ấy pháp luật và chính trị xứ này đã huấn luyện cho chúng
tôi một cái tinh thần đặc
biệt ấy!... “Hiệp
tác” sinh
ra “hiếp
tác” cũng
vì thế!” (Hiệp tác hay
là hiếp tác). Có lúc Ngô Tất Tố đã dũng cảm tố cáo
cái chính sách cướp đoạt trắng trợn cũng như những thủ đoạn bóc lột dân chúng
thuộc địa một cách dã man
của chính quyền thực dân. Đông Dương xưa nay “vẫn đứng đầu trong các việc đóng góp với “mẫu quốc” về quân phí, về quốc trái,
về lạc
quyên. Lại những con số xuất cảng, nhập cảng hàng năm cộng nên con số kếch xù.
Những quan lại công chức hàng năm biết bao nhiêu gia đình khi nheo nhóc kéo
sang, chẳng bao lâu đã phởn phơ kéo vẽ, hành lý kĩu kịt!” (Cho no đủ đă). Không
chỉ tố cáo
những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, ngu dân, mị dân, Ngô Tất T6 còn vạch trần những âm mưu
đầu độc bằng
rượu, thuốc phiện, nhà săm, vi trùng hoa liễu nhằm ru ngủ và làm tê liệt ý chí
phản kháng, nhằm đẩy thanh niên
vào con đường trụy lạc, nhằm đưa một dân tộc đến chỗ diệt vong: “Đối với dân tộc “dã man” đã bị những
người văn minh chinh phục, thuốc phiện là một đạo giáo tốt đẹp có thể đưa họ đến
cõi cực lạc. Đức chúa Phù dung là đấng vạn năng, ngài đủ quyền phép làm cho con
chiên của ngài trở nên hạng người từ bi ngoan ngoãn. Bởi thế hết thảy những
người tu theo tôn giáo “a phiến” đều chừa được
tội “hăng
hái”, “tiến thủ”, nhất định để
nghĩa vụ loài người
đến kiếp sau mới làm.
Giả sử đạo giáo ấy mà được lan rộng thì những dân tộc “dã man” không bao giờ
còn xảy ra chuyện chính trị. Họ sẽ im lặng mà
đem nòi giống lên cõi cực lạc để
hưởng cái hạnh phúc “tịch
diệt” (Nhà đoan với cuộc phòng thủ Đông Dương) (hết 399).
Trong
thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ngoài lũ thực dân, Ngô Tất Tố còn đả kích bọn quan
lại, địa chủ, tư sản, nghị viên cùng với các tổ chức bịp bợm của chúng như Hội
Khai trí tiến đức, Viện dân biểu bù nhỉn, mặt khác, hễ có dịp là ông trình bày nỗi thống khổ của dân quê và tìm cách
bênh vực những người lao động bị áp bức (Một cái thảm trạng, Cái ăn trong những
ngày nước ngập). Những tấn bi kịch ngắn, sinh động trong các tiểu phẩm đã bổ sung cho
cái cảnh sưu thuế trong Tắt đèn và cái cảnh xôi thịt trong Việc
làng và Tập án cái đình, làm thành một bức toàn cảnh về nông thôn và
nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Ngô
Tất Tố đánh địch bằng một nghệ thuật châm biếm sắc sảo, đậm đà màu sắc dân tộc.
Khác với tạp văn của Lỗ Tấn giàu chất trữ tình, dường như tự đáy lòng mà viết
ra, chan hòa máu và nước mắt, nhiều khi Lỗ Tấn đem bản thân mình ra mổ xẻ
trên trang sách; phong cách châm biếm trong tiểu phẩm của Ngồ Tất Tố là sự kết hợp
hài hòa cái thâm thúy của một nhà nho trí thức với cái vui hồn hậu, lạc
quan, tính chiến đấu mạnh khỏe của văn học dân gian. Biện pháp hình tượng hóa trong văn tiểu phẩm của Ngô Tất
Tố thường
là mượn những chuyện có sẵn
trong sử sách hoặc trong cuộc sống, những phong dao ngạn ngữ hoặc truyền thuyết dân gian để làm nổi bật
vấn đề mình định viết. Vốn là một nhà nho nên Ngô Tất
Tố hay liên hệ chuyện đời xưa để so sánh với việc hiện nay (ông Thống sứ với
trận mưa hôm nọ, Ông Pagie chắc có đọc qua Trang Tử, Băi nước bọt trên mặt
ông tuần phủ, Bộ thuộc địa với anh chàng Đặng Bá Đạo...). Sự so
sánh thật đắt đôi khi đã gây một ấn tượng mạnh mẽ vì nó tạo cho tác phẩm một
chiều sâu tư tưởng và hình tượng hóa đối tượng đả kích thành một nhân vật văn
học quen thuộc vốn xưa nay đã bị người đời nguyền rủa. Bình luận về thái độ quay
quắt,
tráo trở của Phan Trần Chúc, chủ nhiệm tờ Tân Việt Nam, kẻ đã
chui vào chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO) để
tranh cử nghị viên, hô hào “anh em
thợ thuyền”, “chị em lao
động” rồi sau đó lại “dỗi với chủ
nghĩa xã hội mà quay ra quảng cáo cho đế quốc Nhật”, Ngô Tất Tố viết: “Cái
cảm tình của họ đối với quần chúng khi ấy thật chẳng khác gì cảm tình của vợ Chu Mãi
Thần đối với chồng khi thấy chồng nghèo mà xin đi lấy người
khác. Giả sử đế quốc Nhật nuôi
sống được họ thì họ đã đặt quần chúng xuống dưới gót chân từ lâu rổi. Chỉ vì bợ đỡ đế quốc Nhật cũng chẳng được ăn là
bao, cực chẳng đã họ lại quay vào mặt
thợ thuyền lao
động mà hô anh
em, chị em.
Lần này quần chúng không những không
thưa, lại cho họ những bài học... đáng “tỉnh người ra”... Thấy cái cảnh “có hô mà không có ứng” của họ thật
cũng đáng thương. Nhưng bát nước đã hắt xuống đất, hót lại sao được! Vợ
Chu Mãi Thần ngày xưa, chỉ có thế mà xấu hổ đến phải tự tử” (Báo Tân Việt Nam và
vợ Chu Mãi
Thần).
Trong
những bài văn tiểu phẩm, Ngô Tất Tố đã ít nhiều thực hiện được yêu cầu điển hình hóa của
nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Điều cần chú ý là
điển hình trong văn tiểu phẩm khác với điển hình trong (hết 400) kịch, truyện
vừa, tiểu thuyết, ở đây hình tượng điển hình có khi không nằm trong một
bài mà phải tập
hợp một số bài lại mới thấy được một cách đầy đủ. “Những cái mà tạp văn của tôi miêu tả thường là một cái mũi, một cái miệng, một
sợi lông
nhưng hợp lại thời cơ hồ đã thành một hình tượng đẩy đủ rồi”[2].Trong
tiểu phẩm của
Ngô Tất Tố,
những hình
tượng của Phạm Huy Lục, Hoàng Trọng Phu, Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh,
Hítle... là những hình tượng được xây dựng khá công phu: mỗi bài viết dường như tập trung soi sáng
nét tiêu biểu nào đó của một
tính cách đa dạng và phức tạp.
Lập
trường của một người trí thức yêu nước thương dân đã làm cho tiếng
cười của Ngô Tất Tố trong văn tiểu phẩm có nội dung xã hội sâu sắc, lành mạnh, lạc quan và nói chung, lúc nào cũng nhằm trúng đích, bắn chính xác vào kẻ thù của dân
tộc và của quần chúng bị áp bức, bóc lột. Ngô Tất Tố là một người trước sau chung thủy với cách mạng. Tuy nhiên, cho đến
những năm tiền khởi
nghĩa, ông vẫn chưa đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng. Ông chưa thấy được lực
lượng hùng hậu của phong trào quần chúng, có lúc đưa ra
những biện pháp cải lương tư sản, cá biệt, có lúc bị hấp dẫn bởi những sách báo ca ngợi phong
trào Duy Tân của
Nhật Bản... Tuy có những hạn
chế trong thế giới quan nhưng có thể nói
trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố đã chiến đấu như một người bạn đường
đáng tin cậy của giai cấp công nhân (hết 401).
[1] Theo
Ngô Tất Tố, hiến
pháp cùa Phạm Quỳnh lấy 3
quyền
làm... chủ, “rành
rành 3 góc”: "nước
Pháp, triều đình
Huế, dân Annam (Chú khán Ngốc nói
chuyện ông Phó Quỳnh,
Tiên sinh Phạm
Quỳnh cãi lộn
với ông Thương Chi).
[2] Lỗ Tấn.
Lời nói sau, Cho bàn gió trăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét