Đọc
sách: Văn học Việt Nam
1900 – 1945
(Nhà
Xuất bản Giáo dục)
|
Chương XIII
(1892
- 1954)
|
Mỗi
nhà văn chúng ta đến với văn học, đến với cách mạng bằng một con đường riêng.
Đọc đoạn văn trả lời phỏng vấn báo Con Ong dưới đây, ta sẽ thấy rõ hơn cái điểm
xuất phát của ông “đầu xứ Tố” làng Lộc Hà,
huyện Đông Anh (Hà Nội).
Thưa
ông, ông viết văn chắc từ lâu lắm ?
-
Vâng, nếu chữ Nôm có thể kể là quốc văn thì
tối viết có đến
ngót 30 năm nay rồi. Hồi ấy vào năm
1907, 1908 gì đó, tôi không
nhớ kỹ, chỉ biết rằng
trước khoa thi Kỷ Dậu ngoài chữ
Nho ra, lại có bài thi quốc ngữ. Lại nhân có cái ảnh hưởng cuộc phản đối khoa cử do hội Đông Kinh nghĩa thục
xướng lên, thầy tôi cũng chán
lối văn cử nghiệp, bắt tôi tập lối văn thiết thực, tỷ dụ như: tả cảnh một đồng lúa chiêm, hay
tả cảnh cái đình
cái chùa...
- Bằng chữ quốc
ngữ ?
-
Không, bằng chữ Nôm.
Nhưng quốc ngữ, tôi, cũng như phần nhiều bạn đồng
thời, đều có biết. Đó là một điều kiện bắt buộc, bởi vì tôi đã nói lúc nãy, trong
chương trình thi có cả môn quốc ngữ. Hồi ấy, tôi mới có 14 tuổi.
Nhưng dù chán nghề cử
tử, tôi vẫn cứ phải đi thi. Lận đận trường ốc mãi cho đến khoa Ất Mão[1]
là khoa cuối cùng,
tôi hỏng thi. Thi chữ Nho bãi rồi, tôi mới tính đến nước đi ngồi dạy học. Ngồi dạy
học ông tính thì còn có gì. Bởi nhàn
rỗi quá, không có việc gì mà làm, tôi
mới nảy ra ý tưởng viết văn. Tôi dịch cuốn Cẩm hương
đình. Năm ấy tôi đã 22 tuổi[2]... (hết 389).
Ngô
Tất Tố thuộc thế hệ những nhà nho cuối mùa như Nguyễn Trọng Thuật, Mai
Đăng Đệ,
Phạm Quế Lâm, Nguyễn Khắc Hiếu..., những người đã chứng kiến cảnh chợ chiều của các nhà
nho cũng như
cảnh tiều tụy,
sa sút của một nền Hán
học đã hơn nghìn năm rực
rỡ, làm khuân mẫu
cho đạo đức, phong hóa của
các triều đại
phong kiến. Chỉ trong vòng hơn một chục năm, sau khi những người dân phu Nam
Định dỡ hết các bức rào nứa của trường thi Hà Nam khoa cuối cùng thì các nhà nho đã biến thành thầy địa lý, thầy bói, thầy tướng...
lang thang ở các cửa đền, các chợ để kiếm kế sinh nhai, độ nhật, hoặc trở về dãy phố bán bồ Hà Nội ngày
xưa, bày mực tàu giấy đỏ ngồi viết câu đối bên vệ hè đường phố, buồn râu, nhẫn
nại trông
theo những người đi sắm Tết
vô tình và bận rộn
trong một ngày cuối năm mưa
bụi...
Thật
là kỳ lạ khi ta thấy từ điểm xuất phát đó, nhà
nho nghèo yêu nước NgôTất Tố
đã phấn đấu để trở thành
một nhà văn bạn
đường của giai cấp công nhân, và sau đó, một đảng
viên Cộng sản.
Quá trình diễn biến
tư tưởng của Ngô Tất Tố đã in dấu vết của những tư tưởng Lương Khải Siêu, Khang
Hữu Vi, Hồ
Thích, đã chịu ảnh hưởng của Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu). Sau đó, trong thời kì Mặt trận Dân
chủ ông mới có điều kiện đọc
tác phẩm của Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Gorki và
cuối cùng, ông đã tìm đến những sách báo của Đảng, của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong
những môn đệ của Khổng, Mạnh, nhiều người ngơ ngác tụt lại phía sau, nhưng Ngô Tất Tố đã vượt lên phía trước,
đuổi kịp thế
hệ trẻ và trở thành một trong những người tiến bộ nhất của lớp nhà nho cuối
mùa. Chính điều đó đă làm cho
Trấn Minh Tước rất đỗi ngạc
nhiên: “Ngọn
bút của ông đồ nho
Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngọn bút của cái thế hệ sản xuất những câu “điên
viên vui thú vị” hoặc
có muốn thiên về dân quê một cách thiết tha hơn thì bất quá và đáng lẽ ngọn bút
ấy chỉ viết những bài có cái tiêu đề “cải lương hướng chính” mà 15 năm trước đây
chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi cái thế hệ
của mình. Người môn đệ của Khổng, Mạnh này đã thở hít cái không khí
xã hội của K.Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu”[3].
II. NGÔ TẤT TỐ VÀ NHO GIÁO
Trước
Cách mạng tháng Dim, trong loạt văn tiểu
phẩm, trong các công
trình nghiên cứu cũng như trong tiểu thuyết Lều chõng,
truyện Trong rừng nho, Ngô Tất Tố đã nhiều lần soát
lại một cách không tự giác những giáo lý Khổng, Mạnh. Ông không thể không suy nghĩ về cái đống sách
vở mà mình đã
mài tuổi xanh trên đó, khi viết
Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim
(1938), Mặc Tử (1942), Lão Tử (1942) và Kinh
dịch (1944). (hết
390)
Tuy chưa có một
quan điểm khoa học, mác xít để tiến hành nghiên cứu Nho giáo một cách triệt để,
nhưng rõ ràng
Ngô Tất Tố không
phải là người nhắm mắt phục cổ, suy
tôn Nho giáo một chiều. Năm 1938, Ngô
Tất Tố viết
rất nhiều bài
có liên
quan đến Nho giáo. Chúng ta đã biết, thời kỳ đó Ngô Tất
Tố có chịu ảnh hưởng
của Lỗ Tấn. Tuy là một môn đệ của Khổng, Mạnh nhưng cũng giống như Lỗ Tấn, nhiều lúc Ngô Tất
Tố đã thẳng thắn
phê phán giáo lý của các Nho gia, đặc biệt tỏ thái độ “bất kính” đối với cụ Khổng. Ngô Tất Tố chế giễu hai cái chủ nghĩa hành đạo và tùy
thời của Khổng Tử và Mạnh Tử: “Hành đạo, nói một
cách nôm na tức là làm quan, làm quan đế thực hành đạo giáo của mình. Mà tùy thời ? Cắt nghĩa một cách không cho ai
hiểu, thì là... tùy thời! Khổng Tử sính làm quan lắm. Cứ như Trang Tử đã nói thì chính mình cụ đã đem “đạo” đi
rao với 72 ông vua, dấu ngựa, bụi xe của ngài khắp cả các nước, rút lại vẫn không đắt hàng. Cùng
quá, đến nỗi hai anh tướng giặc nước Lỗ, cái “nước cha mẹ” của ngài, trong khi chiếm đất làm loạn, muốn mời
ngài đến giúp việc, ngài cũng định đi với họ. Thật là một nghĩa tùy thời!”(Con cháu khôn hơn ông vải). Ngô Tất Tố cũng phê phán cái chủ
nghĩa trung quân mù quáng của Khổng Tử, chỉ biết nhắm mắt tôn thờ các
bậc đế vương, thậm chí bao che cho cả bọn hôn quân bạo chúa. Trong sách Xuân Thu, Khổng
Tử không dám
“bỏ sót một ông
vua nào của nước Lỗ mà không chép “công
tức vị”, cho
đến Hoàn công là
kẻ giết anh để cướp
ngôi vua, ngài cũng chép “công tức vị” như
thường” ! (Phê bình “Nho giáo"
của Trần
Trọng Kim). Ngô
Tất Tố cũng phê phán Khổng Tử là người “thiên về chính trị chuyên chế”, chủ trương cái thuyết ngu dân của giai cấp
thống trị, chỉ muốn biến “thứ dân” thành
những kẻ cam phận tôi đòi.
Đạo Khổng thực chất đã thành một công cụ thống trị về mặt tinh thần của bọn vua
chúa phong kiến. Theo Ngô Tất Tố, nếu như ở phương Tây, các ông vua đều chịu “lễ thụ phong
của giáo hoàng và nhờ giáo hoàng đặt hộ cái mũ lên đấu” thì ở phương
Đông, các thế lực phong kiến đều coi đạo Khổng là một “tôn giáo để duy trì thế lực của mình”. “Lưu Bang là anh cai phu ở Ly Sơn, trong lúc kéo quân phá nước Tần, đánh
nước Sở, rất khổng ưa nhà nho, có khi hắn đã lật mũ nhà nho mà đái vào. Thế mà khi chiếm
được cái ngai hoàng đế thì tự mình lại đem cỗ thịt bò khúm núm đến lễ trước
miếu cụ Khổng và trọng dụng một anh nho dở là Thúc Tồn Thông để chế ra triều nghi cho
mình. Các vua sáng nghiệp đời sau của nước Tầu đều theo kiểu ấy. Cho đến Tưởng Giới Thạch bây
giờ cũng vậy” (Chúa trùm Đảng áo nâu sẽ xuống địa ngục).
Khổng
Tử ít nhiều đã
được lý tưởng hóa, thần thánh
hóa và
được sử dụng làm một công cụ phục vụ cho những mục đích xấu xa của bọn phong
kiến và các giai cấp bóc lột khác. Ý kiến của Ngô Tát Tố đối
với giáo lý Khổng, Mạnh không tách rời với sự phê phán ý thức hệ phong kiến nói chung. (hết 391)
Với bản lĩnh của một cây
bút có tư tưởng độc lập và luôn
luôn muốn vươn lên cho kịp thời đại, với tinh thần tiếp thu có phê phán - và lúc cần thì phê
phán khá nghiêm khắc -
những giá trị tinh thần cũ
của các nhà nho, các tác phẩm của Ngô Tất Tố (Phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng
Kim, Mặc Tử, Lão Tử và cả Lều chõng nữa)
đều ít
nhiều có ý nghĩa chống lại
phong trào phục cổ, phong trào suy tôn Khổng giáo và bảo tồn quốc túy...
mà bọn Quỳnh, Vĩnh, các tạp chí Nam Phong, Dồng Dương tạp chí và Nhà
xuất bản Alexandre de Rhodes của bọn thực dân đang ra sức hô hào cổ vũ.
Giữa
cái không khí phục cổ đầy vẻ thành kính trang nghiêm với mùi hương trầm đốt lên trong các miếu đình lăng tẩm,
với màu vàng son rực rỡ của hoành phi câu đối, của võng lọng, cân đai, cờ biển,
giữa lúc một số nhà văn lãng mạn đang ra sức tô son vẽ phấn cho chế độ khoa cử
dưới triều Nguyễn, biến chế độ phong kiến thành thời đại hoàng kim của kẻ sĩ...
thì Lều chõng[4] ném ra một bức
tranh màu xám với những đường nét tối sẫm. Bằng kinh nghiệm cuộc đời mình, Ngô Tất Tố
có điều kiện hiểu rõ
hơn các nhà văn lúc bấy giờ về những sự thối nát của chế độ khoa cử phong kiến. Ông nội Ngô Tất Tố đã ra
công dùi
mài đèn sách, lận đận bảy khoa thi hương mà chỉ đậu tú tài; ông thân sinh ra nhà văn cũng sáu lần “lều
chõng” ra đi
để rồi sáu
lần “lều
chõng” trở
về, chịu sống cuộc đời bình lặng với cái chức ông đồ ở một làng
nhỏ. Bản thân Ngô Tất Tố tuy tài hoa vào loại “đầu xứ”, cũng
hai lần “lều
chõng” đi
thi nhưng chưa lần nào vào được tam trường! Viết Lều chõng Ngô Tất Tố đã ghi lại một thiên phóng sự chân
thật về chế
độ giáo dục và khoa cử mục nát dưới triều Nguyễn, đồng thời nhà văn cũng muốn miêu tả tấn
bi kịch đau xót của
những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến.
Những
sự việc xảy ra trong Lều chõng là từ giữa thế kỷ XIX (Minh Mạng thứ 12
(1831) cho đến ngày thực dân Pháp đặt ách đồ hộ lên đất nước ta (Kiến Phúc -
Giáp thân (1884). Xã hội phong kiến nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng, khởi nghĩa nông dân
như những làn sóng ngày càng
dâng cao, nạn ngoại xâm đang đe dọa vận mệnh đất nước, thế nhưng triều đình
phản động nhà Nguyễn vẫn duy trì một chế độ giáo dục nhồi sọ, giáo điều, sao chép cổ
nhân không hề sáng
tạo và một chính sách tuyển lựa nhân tài quá đỗi lạc hậu. Học sinh vẫn phải đọc
kinh truyện Trung Quốc (Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Luận
ngữ, Mạnh Tử...), học Bắc sử kỹ hơn Nam sử, và văn bài thì thí sinh vẫn phải làm thơ, phú, văn
sách, kinh
nghĩa, biểu, chiếu như sáu trăm năm về trước! Thí sinh chỉ cền nhai lại các
giáo lý và tuân thủ nguyên tắc “tôn Khổng, sùng Nho, chuyên kinh, phục cổ”[5] những nguyên
tắc giáo dục mà Khổng Tử đã đề ra cho môn đệ của mình hai ngàn năm vể trước. (hết 392)
Vận
mệnh đất nước đang nghiêng ngả mà cụ bảng Tiên Kiều vẫn say sưa giảng Kinh Dịch, Trung dung, Tống sử, cụ có ngờ đâu cái
học kinh viện, giáo điều mà cụ truyền bá,
lại là cái họa đưa
đến sự mất nước. Trong lời giới thiệu cuốn Lều chõng, Ngô Tất Tố đã nêu
rõ cống
tội của chế độ khoa cử phong kiến: “Chính nó đã
làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn hóa, rồi lại chính nó đã đưa nước Việt Nam đến cõi diệt vong”[6]. Lều
chõng là tấn bi hài kịch của cả một thế hệ nhà nho trí thức. “Vì nó, nước Việt Nam
trong một thời kỳ tuy rất dài, đã hiện ra nhiều cảnh tượng kỳ quái có thể khiến cho người ta phải cười, phải khóc”[7].
Trong
tiểu thuyết Lều chõng, ít khi ta thấy người thật của anh nho sĩ trí thức
với tất cả bản lĩnh và tính cách của mình. Ta thường thấy một con người giấu
mình đi sau thi, thư, lễ, nhạc, một con người đã bị chế độ giáo dục và khoa cử
phong kiến đưa vào khuôn phép, một con người không có cá tính và tinh thần độc
lập suy nghĩ, một
con người nói và làm theo sách
cổ nhân và nhắm mắt phục tùng
mọi tôn ti
trật tự phong kiến, một con người thực sự vô dụng khi được triều đình công nhận
là “hữu
dụng”! Anh nhà nho này
lúc thì bị lấp
đi sau cái đống lều chõng, ống quyển, áo tơi, chiếu cói lôi thôi, tất cả mọi
thứ cồng
kềnh đã đánh
đu lên cái cổ ngẩng thư sinh của anh ta như một món nợ truyền kiếp. Có lúc chịu đựng
không nổi
mọi thứ sức mạnh và ràng buộc vô hình cũng như hữu hình đó, anh ta đã bị
đè sấp xuống
giữa đường vào trường thi: “Một ông cụ
già đầu bạc,
râu bạc, đương nằm chỏng gọng trên đường, cuộn áo lên gác chéo giữa
cổ, chiếc chõng tre và cái tráp sơn đè sấp ngửa trên bụng”! Chưa hết. Cái khổ, cái nhục còn theo họ vào
trường thi với hàng trăm thứ phép tắc rối rắm, vô
nghĩa lý (phạm húy, khiếm dài, khiếm tị, khiếm trang, v.v...), treo lơ lửng
trên đấu họ như một lưỡi gươm oan nghiệt. Trong cái xã hội làng nho tiến
thân bằng con đường cử nghiệp, chỉ cần xuất hiện
một anh chàng hào hoa, phóng túng như Vân Hạc, lập tức con người đó được đưa ngay
vào khuôn phép và việc đầu tiên là người ta phải dùng khoa cử để mài dũa
cho mòn bớt đi những gì là bản lĩnh, khí phách, là suy nghĩ sáng tạo, là bướng
bỉnh ngông nghênh của tuổi trẻ. Qua cái máy mài dũa - khoa cử đó, những
nho sĩ mất hết tất cả góc cạnh, trở nên con người tròn trĩnh và cuối
cùng, chỉ biết cúi đầu phục
tùng.
Dưới
ngòi bút châm biếm sắc sảo của Ngô Tất Tố, trường thi được miêu tả “như sân khấu
rạp tuồng”, trên
đó các
quan giám khảo múa may “giống hệt những quan phường chèo”! Còn cái ông tiến sĩ cờ biển vinh quy về làng lại “giống như những ông nghè bằng giấy mà (hết 393) hàng năm đến rằm
tháng tám, người ta vẫn trông thấy ở cỗ “trông trăng”[8]. Tất
cả những
quan phường chèo, những ông nghè giấy đó, dưới ngòi bút hiện thực của Ngô Tát Tố đều giống nhau:
dáng điệu trịnh trọng bệ vệ, toàn thân cứng nhắc, ngây đuỗn. Đó là cái vẻ bên
ngoài của một kiểu người luôn luôn nơi đến lễ nghĩa và mọi thứ tôn ty trật tự:
Kiểu người của Khổng Tử. Trong bài Thầy Khổng ở Trung Quốc ngày nay, bằng một giọng
hài hước, Lỗ Tấn
đã nhắc đến một hình vẽ
Khổng Tử: một ông già gầy gò, mặc áo
thụng xanh, đội mũ cánh chuồn, đi hia, cầm hốt,
ngồi
nghiêm không
cười, giá có phải ngồi hầu chuyện ngài
thì chắc cái
lưng chúng ta cũng phải ngay đơ, thẳng đuỗn, ngồi một lát đau xương sống quá rồi cũng phải
kiếm cách mà chuồn cho
sớm! Là một người trong làng nho nên Ngô Tất Tố đã sớm phát hiện ra những nét hài kịch toát
ra từ mâu thuẫn nằm ngay
trong bản chất những ông “quan phường chèo” và “tiến sĩ giấy” đó. Trong Lều
chõng, Ngô Tất Tố
không trực tiếp chỉ trích Khổng Tử nhưng ông đã châm biếm những kiểu người do
giáo lý Khổng, Mạnh xây dựng nên.
Lều
chõng chủ yếu là một tấn bi kịch của
những nhà nho trí thức dưới chế độ phong kiến. Đó là sự sụp đổ thảm hại về mặt tinh thần của những người trí thức suốt đời lấy khoa cử
làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng. Trường
thi vừa
là sân khấu rạp tuồng cho những ông “quan phường chèo” múa
may nhưng đồng thời cũng là nơi diễn ra bao nhiêu tấn bi kịch đau xót, thương
tâm. Một ông cụ
già khóc nức nở trong nhà Thập đạo vì đi thi đã 10 khoa, bán hết nhà cửa ruộng vườn, bây giờ lại bị ngoại
hàm! Một ông già khác đã 6 khoa thi hương, râu tóc bạc phơ, ốm yếu mang không nổi lều chõng vẫn cố lê cái thân tàn vào trường thi để rồi chết gục ở
trong đó! Nhiều vị “anh hùng hỏng thi” uống
rượu say rồi chửi
đổng hoặc ném gạch đá vào cửa trường, có người “nôn thốc nôn tháo khắp cả đường cái”. Phóng túng như Vân Hạc, Đốc Cung lúc nghe tin hỏng thi cũng nghẹn ngào, nức
nở, “quang
cảnh tiệc rượu giống như quang cảnh đám ma của kẻ bạo tử, toàn
những người khóc người mếu”...
Lều chõng là
một cuốn tiểu thuyết gần với tiểu thuyết truyền thống. Cũng kể theo trình tự thời gian, cũng có lời đoán trước
số mệnh (cô Ngọc bói Kiều) nhưng cái kết thúc thì lại không đẹp đẽ như
trong các truyện Nôm. Vì đây là một tấn bi hài kịch nên kết thúc là một sự vỡ
mộng chứ không
phải cảnh đoàn viên với một quả hạnh phúc vẹn tròn. Tuy không có kẻ tài sắc
nào phải “gieo
ngọc trấm châu”,
nhưng cái ấn tượng đổ vỡ măt mát thì đã quá rõ. Chính vì thế mà Lều chõng là một tiểu
thuyết hiện thực phê phán, nó không rơi vào lối thi
vị hoá, lý tưởng hóa như
trong các tác phẩm lãng mạn
(Nhà nho, Bút nghiên, Thanh đạm).(hết 394)
Do
những hạn chế và mâu thuẫn trong lập trường tư tưởng của một nhà nho trí thức,
do chưa tiếp thu được chủ nghĩa Marx - Lênin, nên đôi khi thái độ phê phán Nho giáo của Ngô Tất Tổ
thiếu triệt để, thiếu cơ sở khoa học. Ông phê phán chế độ khoa cử phong kiến
nhưng trong Lều chõng không phải không có những trang
ít nhiều thi
vị hóa một
số cảnh
sinh hoạt của nhà nho hoặc đi quá sâu vào một số phong tục lễ nghi cổ. Phải
chăng chính vì những hạn chế đó mà Lều
chõng, tuy là một tác phẩm có thái độ phê phán phong trào phục cổ, sùng Nho
nhưng Nhà xuất bản Alecxandre de Rhodes vẫn
tặng cho nó giải
ba sau các giải nhất, nhì cho Nho giáo của Trần
Trọng Kim và Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
[2] Con Ong, số 3 (18/6/1939)
[3] Minh
Tước: Ngô Tất Tố trong “Tắt đèn”, Mới, số 4 (15/6/1939).
[6] Lời giới
thiệu “Lều chõng” của Ngô Tất Tố, Thời vụ số 109, 10/3/1930.
[7] Lời giới
thiệu “Lều chõng” của Ngô Tất Tố, Thời vụ số 109, 10/3/1930.
[8] Đoạn này cũng như nhiều đoạn văn châm biếm
khác trong Lều chõng, trước kia bị thực dân Pháp kiểm duyệt, nay
chúng tôi đối chiếu lại với báo Thời vụ để khôi phục lại nguyên bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét