1. Sự cáo chung của nền Hán học ở Việt Nam
Chúng ta biết
rằng nền văn học viết Việt Nam bắt đầu định hình và phát triển liên tục từ cuối thế kỷ thứ X với hai bộ phận
văn học chữ Hán và chữ Nôm (từ thế kỷ
XIII). Ngay từ đầu, nó chưa phải là một nền văn học Nho giáo. Điều này
có nguyên nhân ở chỗ: sự hình thành và phát triển của bất cứ nền văn học dân
tộc nào trước hết
cũng đều là sản phẩm tinh thần của chính dân tộc đó để phản ánh tư tưởng và
tình cảm của mình. Trước khi diễn ra quá
trình vận động đi vào quỹ đạo văn học thế giới, văn học Việt Nam đã vận động
gia nhập vào quỹ đạo vùng của văn học Đông - Á.
Sự cáo chung của nền Hán học là một tất yếu lịch sử. Các trí thức tiến bộ
Việt Nam ngay từ cuối thế kỷ XIX đã nhìn nhận chữ quốc ngữ như một công
cụ vô cùng hiệu quả của công cuộc đổi mới văn hoá trước một bối cảnh rộng lớn của sự giao lưu giữa phương Đông và
phương Tây. Điều này được thể hiện trong ý kiến của Phạm Quỳnh từ năm
1931: “Nước Nam ta đời
trước không thể có quốc học bằng chữ Hán được; nước Nam ta sau này cũng không thể
có quốc học bằng chữ Pháp được. Muốn
cho nước Nam có quốc học thì phải có quốc văn bằng tiếng An Nam”[1].
Công cuộc La-tinh
hoá tiếng Việt đã bắt đầu từ thế kỷ XVI với sự có mặt của các giáo sỹ phương Tây. Từ thế kỷ
XVII, XVIII, xã hội Việt Nam đã xuất hiện đội ngũ thương nhân người Việt, người
Hoa và sau đó là các thương nhân phương Tây và chính những đối tượng này là
những nhân tố báo hiệu cho một nền kinh tế đô thị (và đời sống văn hoá tinh thần
đô thị). Tuy còn ít ỏi, nhưng đã bắt đầu hình thành một xã hội thị dân, một môi
trường kinh tế - văn hoá phi cổ truyền. Theo TS. Trần Ngọc Vương, đó là những
yếu tố quan trọng để hình thành một loại nhà nho mới - nhà nho tài tử
bên cạnh hai loại hình nhà nho vốn rất phổ biến trước đó là nhà nho hành đạo
và nhà nho ẩn dật.
Đặc điểm chung
của loại hình nhà nho mới này là: mặc dù cũng đã từng là môn sinh nơi “cửa
Khổng sân Trình” nhưng họ không chọn con đường khoa cử để cầu công danh phú
quý. Họ coi trọng “tài” và “tình” (chứ không phải đạo đức như Nho giáo
vẫn thường quan niệm) và coi văn chương là một trong những phẩm chất để tạo nên
con người tài tử...
Ngay từ đầu
những năm 40 của thế kỷ XX, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Các
tài tử ra đời để thay thế cho các quân tử, các trượng
phu, là những người độc chiếm văn đàn trước đây. Các tài tử ấy học đạo thánh
hiền, nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát đều tự xưng là tài tử. Con người tài tử là điển hình mới của
thời đại. Con người quân tử bị chế giễu, đạo đức sống khắc kỷ phục lễ bị mạt
sát. Một trào lưu tư tưởng mới manh nha trong lòng những chàng trai giỏi nhất
của thời đại”[2]. Điều
cần lưu ý là một bộ phận của loại hình nhà nho tài tử sau này đã tham gia vào
một lớp người chưa từng có trước đó là các nhà
báo (t56).
Tuy nhiên,
trong giai đoạn đầu tiên, chữ quốc ngữ không nhận được thiện cảm của cả giới
trí thức và bình dân ở nước ta vì nó gắn với sự có mặt của “người Tây” và là
nguyên nhân làm mất dần vai trò độc tôn hàng nghìn năm của nền Hán học.
Theo tác giả
Trần Thị Trâm, chính quyền thuộc địa Pháp cũng có vai trò nâng cao địa vị chữ
quốc ngữ. Chúng mở trường dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp để thay thế cho chữ
Hán và chữ Nôm: “Pháp chính thức
đưa ra một đạo luật khuyến khích học quốc ngữ: Kể từ ngày 01/01/1882, nhà nước
Pháp sẽ không tuyển dụng bất cứ một người nào nếu không biết chữ quốc ngữ. Nếu một công chức hay
binh lính nào biết quốc ngữ được thưởng 100 quan tiền”[3].
Tất nhiên, việc khuyến khích học chữ quốc ngữ
như vậy trước hết là để phục vụ công cuộc xâm lược và quá trình truyền bá văn hoá Pháp ỏ nước ta.
Từ cuối thế kỷ XIX và đặc biệt là sang những năm đầu thế
kỷ XX, cùng với phong trào canh tân văn
hoá và sự xuất hiện của máy in, của công nghệ sản xuất giấy, chữ quốc ngữ mới
thực sự có một vai trò quan trọng và trở thành phương tiện của báo chí và nền vãn học mới,
Đến lượt nó, chính
báo chí và nền văn học hiện đại cùng với nhà in, trường học... đã tác động trở lại khiến cho chữ quốc ngữ
phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Với sự nhạy bén và với tinh thần cành tân xứ sở, các nhà trí
thức nước ta khi đó đã
nhanh chóng nhận thấy vai trò quan trọng của chữ quốc ngữ. Trong cuộc tranh
luận về quốc học (từ 1924 đến 1939), tuy còn nhiều bất đồng nhưng riêng về chữ
quốc ngữ, hầu hết các ý kiến đều nhận thấy những ưu thế vượt trội của nó so
với chữ Hán và chữ Nôm. Họ đã
hăng hái cổ vũ cho chữ quốc ngữ với tư cách là một công cụ văn hóa có những tác động tích cực và cơ bản đến sự phát triển của nền
văn hoá dân tộc. Công cuộc này đã bắt đầu với lớp trí thức cuối
thế kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... và được nối
tiếp một cách mạnh mẽ với những lớp sau như Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Triệu Luật, Phan Khôi, Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hoàng Tích Chu v.v... Trên báo chí thời kỳ đó có khá nhiều
những ý kiến đầy nhiệt tâm như lời kêu gọi của Phan Khôi năm 1929: “Này, hỡi người An Nam ta hãy bắt
đầu từ nay học viết chữ quốc ngữ cho đúng đi! Có như vậy mới
xứng đáng là người An Nam”[4].
Chính tinh thần ấy đã tạo ra một cuộc cách mạng về văn hoá ở nước ta trong giai
đoạn bản lề quan trọng này.
Ở nước ta, tờ báo tiếng Pháp đầu tiên được xuất bản tại Sài
Gòn từ ngày 29/9/1861. Tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo
ra số đầu ngày 15/4/1865, chủ báo
là Ernest Potteau và chủ
bút là Trương Vĩnh Ký. Tờ báo này có khuôn khổ 25 x 32 cm, ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44
năm sau đó. Từ thời điểm đó đến năm 1934 khi Nam Phong - tờ báo lớn nhất
do Phạm Quỳnh làm chủ bút bị đình bản, đã có tới 186 tờ báo tiếng
Việt đã được xuất bản trên toàn quốc.
Theo nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, ban đầu các trí thức Việt Nam chưa thực sự có ý thức
sáng tạo văn học mà chủ yếu chỉ dịch thuật tác phẩm của nước ngoài. “Những nhà văn lớp đầu, dù thuộc nhóm Đông
dương tạp chí, dù thuộc nhóm Nam phong tạp chí hay dù là
những nhà văn độc lập, không viết riêng hẳn cho một cơ
quan văn học nào, phần nhiều đều khuynh hướng về biên tập, dịch
thuật hay khảo cứu cả”[5]. Phải
bước sang những năm đầu thế kỷ XX, công việc sáng tạo các tác phẩm văn học và báo chí mới dần dần trở nên phổ biến.
Đó là thời kỳ mà sự phát triển của báo
chí cũng đồng thời là sự phát triển của văn học. Sự
xuất hiện của nền văn hoá phương Tây đã tạo ra những tác động quan trọng trong
việc hình thành và phát triển của nền văn học hiện đại, gắn liền với sự xuất
hiện và phát triển của nền báo chí chữ quốc ngữ ở nước ta (t58).
Trước khi có các nhà xuất bản, báo chí là phương tiện duy nhất để truyền
bá văn học. Sự xuất hiện của các nhà xuất bản như Tân Dân, Hàn Thuyên, Minh
Đức, Châu Phương, Nam Ký, công nghệ sản xuất giấy, sự phát triển của mạng
lưới bưu điện và các hiệu sách... càng tạo ra những tác động tích cực đến sự
phát triển của cả văn học và báo chí. Thời kỳ này nhìn chung không có sự phân biệt giữa “nhà văn” và “nhà báo”.
Sự khác biệt có lẽ chỉ là ở chỗ: “Nếu đa phần cánh văn sỹ Nam kỳ là những nhà
báo viết văn thì cánh Bắc Hà ngược lại phần đông là nhà văn viết báo”[6].Tuy nhiên không thể nói rằng loại hình nhà nho
tài tử không để lại dấu ấn gì trong đời sống văn học hiện đại và báo chí Việt Nam thời kỳ này (t59).
Trong lịch sử văn học và lịch sử báo chí Việt Nam, có thể coi những năm cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là một thời kỳ phát triển đặc biệt - thời kỳ bản lề
trong lịch sử văn hoá dân tộc. Để hiểu rõ những nét đặc trưng trong sự phát triển của báo chí Việt Nam ở
thời kỳ “văn - báo bất phân” này,
cần phải nhìn nhận toàn bộ tiến trình phát triển trước đó của nền văn học,
xem xét những thành tựu, làm rõ
những vấn đề đa dạng và phức tạp đã xuất hiện trong quá khứ đã tạo nên một
truyền thống quy định sự vận động của văn học và sau đó là báo chí (t60).
2. Những nhà nho viết báo tiêu biểu
Theo tác giả
Thanh Lãng trong cuốn sách Nhà văn thế hệ 32, có thể chia các
nhà văn trước năm 1945 thành ba thế hệ: thế hệ 1858; thế hệ 1913; thế hệ 1932 thì
thời kỳ khởi thuỷ, những gương mặt tiên phong trong làng văn làng báo (như:
Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của,
Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cường...) đều là các nhà Tây học
Nam bộ chứ không phải những bậc túc Nho (như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến,
Tú Xương...). Điều này có lý do xuất phát từ những khác biệt quá lớn trong văn
chương truyền thống và
văn học, báo chí hiện đại. Tuy nhiên, đến “thế hệ 1913”, các nho sỹ Bắc
Hà tân tiến sau một thời gian dài nghe ngóng, học tập đã tham gia làm văn, làm
báo. Đó là những nhà nho thức thời như: Tản Đà,
Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tôn,
Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Tiến Lãng...
Có thể lấy ví
dụ bằng trường hợp của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Ông không thuộc lớp những nhà
thơ mới mà là “con người của hai thế kỷ”, là người nốì
tiếp giữa
hai thời kỳ văn học trung đại và hiện đại Việt Nam. Ông “đã đi
qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ hai mươi với tấm lòng
bình
thản một người thời trước”[7].
Trong bối cảnh hỗn độn của Nho học và Tây học thời đó, ông vẫn chịu ảnh hưởng của Nho học nhiều hơn mặc dù
ông cũng đã tham gia làm báo (và có lúc còn xoay sang cả nghề thầy tướng) để
kiếm sống.
So với hai thế hệ
kể trên, các nhà
văn, nhà báo thuộc “thế hệ 1932” có những
khác biệt. Tuy vẫn
thông thạo hoặc ít nhiều có biết về chữ Nho nhưng họ còn là sản phẩm của trưòng
Tây nên biết tiếng Pháp. Đó là một thế hệ hùng hậu mà những anh tài chủ
yếu tập trung ở phía Bắc như: Tam Lang, Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Vỹ, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam v.v...
Ngô Tất Tố là một trường hợp tiêu biểu. Ông
đã trải qua những thập kỷ của thế kỷ XX với hai cuộc chiến tranh thế giới,
trong một xã hội thực dân phong kiến với những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Là một nhà Nho,
ông lớn lên trong cảnh nền Hán học đang lụi tàn nhưng đã vươn lên để trở thành
“một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho” (Vũ Trọng Phụng), trở thành một
cây bút hàng đầu với những đóng góp xuất sắc không chỉ cho văn học mà cả cho nền báo chí Việt Nam trước cách mạng. (t61) Lịch sử văn học tôn vinh
ông như một cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực với những tác phẩm viết
về nông thôn Việt Nam như Tắt đèn, Lều chõng. Lịch sử báo chí cũng ghi công lao của ông với
những tập phóng sự xuất sắc như Việc làng, Tập án cái đình và hàng trăm tiểu phẩm vạch trần bản chất của xã hội
thực dân phong kiến tàn bạo.
Xét trên nhiều phương diện, Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn, nhà báo
lớn mà còn là một nhà văn hoá nổi bật của nước ta những năm đầu thế kỷ XX với những công trình dịch thuật, khảo cứu có
giá trị. Ông đã thành
công xuất sắc ở cả ba loại văn chương: văn chương báo chí, văn chương phóng sự tiểu
thuyết và văn chương khảo cứu.
Riêng về “văn
chương báo chí”, di sản của Ngô Tất Tố cho thấy ông không chỉ viết mỗi tiểu phẩm, mặc dù tiểu phẩm được coi là xương sống trong sự nghiệp báo chí của ông. Điều đáng kinh ngạc nhất là ông đã vận dụng cái vốn Nho học của mình để viết
báo một cách đặc biệt xuất sắc với
văn phong hiện đại, hoàn toàn Việt Nam. Riêng về thể loại tiểu phẩm, ông là
người đứng đầu trong đội ngũ những cây bút thời kỳ đó. Trong đó, với cái nhìn
hiện thực tỉnh táo, với sự sâu sắc và dũng cảm của một tài năng và nhân cách
lớn, ông đã không ngần ngại vạch mặt chỉ tên kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân phong kiến và bọn tay sai (t62).
Tuỳ vào từng loại đối tượng cụ thể là kẻ thù của dân tộc
hay những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
mà Ngô Tất Tố có lối châm biếm, trào lộng thích
hợp với một vốn ngôn ngữ rất quần chúng (t63). Từ
những chuyện thời sự như Gôđa sang thăm Đông Dương; chuyện Tôlăngxơ về nước; cuộc tranh cãi để bênh vực
thuyết “bảo hộ” hay “trực trị” của Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh; chuyện Phạm
Huy Lục tranh cử nghị viện... đến rất nhiều điều lố lăng nực cười khác như nạn thầy lang giả, nạn mê
tín dị đoan, nạn rượu lậu, thuốc phiện, nạn buôn bán văn chương... đều được tác
giả vạch trần bản chất và phê phán một cách mạnh mẽ thông qua ngòi bút châm biếm vô cùng sắc bén. Chính vì
thế, cũng giống như đối với tác phẩm
của Lỗ Tấn, bọn đế quốc và phong kiến ở nước ta trước đây cũng có thái độ hằn học ra mặt đốì với tiểu phẩm của
Ngô Tất Tố.
Cũng cần phải khẳng định rằng: Ngô Tất Tố là một hiện
tượng tiêu biểu nhất trong số các nhà văn, nhà báo Việt Nam đầu thế kỷ
XX, người đã góp phần nâng tiểu phẩm
lên địa vị ngang hàng với những thể loại khác và mở ra cho nó một chân trời
phát triển rộng rãi trong đời sống văn học và báo chí hiện đại ở nước ta (t63).
Nói tóm lại, việc nghiên cứu nền báo chí nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX với cuộc chuyển mình của báo chí đòi hỏi phải có sự
quan tâm đúng mức đến vai
trò của các nhà nho, nhất là các nhà nho tài tử trong giai đoạn bản lề này. Đó là một đòi hỏi khách
quan của công tác nghiên cứu về lịch sử xuất hiện, hình thành
và phát triển của nền báo chí (và kể cả nển văn học hiện đại) Việt Nam.
Đây là một công việc có tính chất đa ngành, đòi hỏi việc khảo sát không
chỉ trong lĩnh vực báo chí, văn học mà còn trong các lĩnh vực gần gũi như lịch sử và kể cả triết học.
Hy vọng trong
một tương lai không xa sẽ có những công trình đề cập
đến vấn đề lịch sử quan trọng này. Điều đó cần phải
được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách trong bốì cảnh hội nhập của đất
nước, khi chúng ta cần phải khẳng định và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trước sức ép
của quá trinh giao thoa văn hóa. Quá trình này chắc chắn sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn dưới tác động của toàn cầu hóa và
khu vực hóa./.
[1] Nhiều tác giả - Tranh luận văn nghệ thể kỷ XX, tập I, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội 2002. Tr. 161.
[2] Vũ
Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989.
Tr. 345.
[4] Nhiều tác giả - Tranh
luận văn nghệ thế kỷ XX, tập II, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2002. Tr. 95.
[6] Trần
Thị Trâm, Văn học và báo chí từ một góc nhìn (Sđd).Tr. 225.
[7] Hoài
Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998. Tr. 12.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét