1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của tiểu phẩm
Đến nay, nhiều
nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho rằng tiểu phẩm đã xuất hiện từ cuối
thế kỷ XVIII, gắn liền với sự phát triển của báo chí phương Tây trong những
hoàn cảnh lịch sử - xã hội đặc biệt. Đó là thời
kỳ của những cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa giai cấp tư sản với giai cấp
địa chủ, quý tộc phong kiến và xã hội phong kiến vốn đã mục ruỗng, thốỉ nát.
Như vậy, tiểu phẩm ra đời đã gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp và được coi là một trong những vũ khí lợi hại của
giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh ấy.
Là con đẻ của
cuộc cách mạng dận chủ tư sản, tiểu phẩm là tiếng nói của khuynh hướng vận động
tích cực, hợp quy luật để chống lại những thế lực cản trở dòng chảy của lịch sử nhân loại. Nhiều nhà văn tiến bộ đã sử dụng
thể loại này một cách có hiệu quả để châm biếm, giễu cợt những điều xấu xa, bất
công, những biểu hiện giả dối, lừa bịp và những trì trệ, lạc hậu trong đời sống. Một số tác
giả như Mông-ten, Vôn-te, Đi-đơ-rô, Lét-xinh, Héc- đơ Ghéc-xen,
Lỗ Tấn... thường được coi là những cây bút tiểu phẩm mẫu mực ở thời kỳ này.
Có thể lấy ví
dụ về trường hợp của Lỗ Tấn - một cây bút tạp văn, tiểu phẩm nổi tiếng nhất
trong văn học Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh tình trạng xã hội Trung
Quốc ngày càng trở nên đen tối, hủ bại, qua các tác phấm xuất sắc của mình, ông
đã mổ xẻ tính cách của người Trung Quốc - nhất là của những kẻ cầm quyền một
cách lạnh lùng và cay độc. Ông là người biết cách châm biếm sâu sắc những nhược
điểm của dân tộc mình với một lòng yêu nước chân thành. Mặc dù bọn bồi bút của
giai cấp thông trị khi đó luôn tìm cách dè bỉu các tác phẩm của Lỗ Tấn, nhưng không ai có thể nghi
ngờ tinh thần dân tộc, sự phẫn nộ chân thành và nhất là tài năng của ông. Chính
Lỗ Tấn đã nâng tiểu phẩm, tạp văn lên địa vị ngang hàng với những thể loại văn học khác, mở ra cho nó một chân trời phát
triển rộng rãi và chiếm một địa vị vinh quang trong văn học Trung Quốc hiện đại...
Trong những
thập kỷ đầu tiên
của thế kỷ XX, khi còn đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, nhà báo Nguyễn Ái Quốc đã viết
nhiều tiểu phẩm sắc bén để vạch trần bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân
Pháp và thức tỉnh các dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập. Chỉ riêng trong
tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le procès de la colonisation francaise) xuất bản bằng tiếng Pháp (năm 1925) đã có hàng chục
tiểu phẩm mẫu mực (như các mục viết về
Ông Phuốc; Ông Lông; Ông Gác-bi;
Ông Méc-lanh; Ông Giê-rê-mi-lơ-me, Ông U-tơ-rày; (Chương III:
Các quan toàn quyền thống đốc) hoặc các Ông Xanh; Ông
Đác-lờ; Quy ngài Bu-đi-nô, Bô-đoăng và những ngài khác (Chương IV: Các quan cai
trị)[1]
v.v... Với sự kết hợp với những kiến thức của Đông, Tây kim cổ và những kiến thức
phong phú của cuộc sống hàng ngày; với tinh thần chiến đấu không khoan nhượng
trước kẻ thù và với nghệ thuật châm biếm sâu sắc, các tác phẩm của Nguyễn Ái
Quốc - trong đó có nhiều tiểu phẩm xuất sắc, đã trở thành những đòn mạnh mẽ
giáng thẳng vào chế độ thực dân tàn bạo. Cũng chính những tác phẩm đó đã đặt
nền móng cho nền văn học và báo chí cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trước đây, GS
Lương Duy Thứ đã nhận thấy: không phải ngẫu nhiên mà nhà báo Nguyễn Ái Quốc
thích đọc tác phẩm Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa. Đó là kết quả của một sự gặp gỡ
trong quan niệm về sứ mệnh văn chương. Có thể nhận thấy bút pháp và giọng điệu
châm biếm trong tiểu phẩm của Nguyễn Ái Quốc có nhiều điểm rất gần gũi với bút
pháp, giọng điệu của Lỗ Tấn. Nhận xét chung về tiểu phẩm của Bác, đồng chí
Trường Chinh đã viết: “Về văn
phong, cách nói hoặc cách viết của đồng chí Hồ Chí Minh có
những nét rất độc đáo; nội dung khảng khái, thấm thía, đi sâu vào
tình cảm con người, chinh phục cả trái tim và lý trí
của người ta; hình
thức sinh động, giản dị, dễ hiểu, giàu tính dân tộc và tính nhân dân”[2].
Ở nước ta, mặc dù nền báo chí xuất hiện chậm hơn so
với các nước phương Tây nhưng ngay từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX, nhiều
tiểu phẩm in trên báo đã gây được những tác động xã hội mạnh mẽ. Như đã nói ở trên, trong
số những cây bút tiểu phẩm thời kỳ này, Ngô Tất Tố được coi là một trong những cây
bút tiêu biểu nhất, xứng đáng được coi là người đứng đầu trong đội ngũ những
cây bút thời kỳ đó. Với cái nhìn hiện thực tỉnh táo, với sự sâu sắc và dũng cảm
của một tài năng và một nhân cách lớn, ông đã chĩa mũi nhọn ngòi bút của mình
vào bọn thực dân phong kiến và bọn tay
sai. Ngô Tất Tố không chỉ viết mỗi tiểu phẩm, tuy nhiên thể loại
này đã được coi là “xương sống” trong sự nghiệp văn học và báo chí của ông.
Nhìn trên tiến
trình vận động phát triển của tiểu phẩm trong văn học và báo chí Việt Nam gần một thế kỷ qua, có thể thấy rằng đây là một thể loại văn học có khả năng
thích ứng với đời sống báo
chí một cách hết sức nhạy bén. Trong những năm đổi mới ở nước ta, quá
trình dân chủ hoá đời sống văn học
và đời sống báo chí đã tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho tiểu phẩm phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trên các báo Trung
ương, báo ngành và báo địa phương, chuyên mục tiểu phẩm và hàng chục những chuyên mục có đăng tải tiểu phẩm đã trở thành một
nét đặc trưng quan trọng của nền văn học và báo chí đổi mới ở nước ta. Những đối
kháng dân tộc không còn, nhưng cuộc
đấu tranh chống tiêu cực,
tham nhũng, tệ hối lộ, quan liêu vẫn rất gay gắt và ngày càng tinh vi phức tạp hơn, đòi
hỏi tiểu phẩm phải đa dạng hơn, linh hoạt hơn. Tính chiến đấu với vũ khí châm
biếm vốn là ưu thế của tiểu phẩm vẫn được phát huy một cách mạnh mẽ trong bối cảnh hiện đại.
Sẽ là không
đầy đủ và không công bằng khi nói đến
những đặc điểm của nền văn học và báo chí đổi mới ở nước ta mà
lại không nhắc đến tiểu phẩm - một thể
loại được ví như những “con dao mổ” sắc bén để trích vào những ung nhọt
của cuộc sống.
2. Một số quan niệm về tiểu phẩm
Về những ưu
thế của tiểu phẩm trong nền văn học và báo chí hiện đại thì không có gì phải
bàn cãi, tuy nhiên đến nay vẫn đang còn những ý kiến rất khác nhau khi xác định
về vị trí và những đặc điểm của thể loại này. Trong thực tế, thuật ngữ “tiểu
phẩm” vẫn thường xuyên được các nhà nghiên cứu văn học và báo chí sử dụng nhưng
với nhiều cách hiểu không giống nhau. Điều đó dẫn tới một thực trạng là có
những tác phẩm tuy cùng được coi là tiểu phẩm nhưng lại có
những tính chất, đặc
điểm rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Bên cạnh đó,
trong lý luận văn học lại có xu hướng sử dụng hai thuật ngữ “tiểu phẩm” và “tạp văn” như một thuật ngữ ghép vì cho rằng tiểu phẩm chỉ là một trong những dạng của tạp văn,
được phân biệt với các
dạng khác ở “tính chất chính luận” sắc bén và “tính chiến
đấu” trước những cái xấu, cái lạc hậu trong xã hội.
Trong bối cảnh của nền văn học và báo chí ở nước ta hiện nay, việc xây dựng
một quan niệm khoa học về tiểu phẩm không chỉ có ý
nghĩa trong công tác nghiên cứu lý luận mà còn có tác động tích cực đối với các
chương trình đào tạo và đối với thực tiễn sáng tạo tác phẩm.
Vậy tiểu phẩm là gì ? Đó là thể loại văn học, là thể loại báo chí hay là một thể loại trung gian giữa văn và báo? Để có thể trả lời câu hỏi này, cần phải bắt đầu từ
việc điểm qua những cách hiểu về
thể loại.
Cho đến nay, ỏ nước ta đang tồn tại một số quan niệm sau đây:
Quan niệm thứ nhất: tiểu phẩm là một thể loại văn học đặc biệt, rất gần
gũi với báo chí. Nó có những đặc điểm nổi bật là:
hình thức ngắn gọn; nội dung có tính chiến đấu cao, năng động và linh hoạt do bám sát những con người, sự việc, vấn đề, tình huống có thật trong
đời sống; thường sử dụng bút pháp châm biếm, đả kích. Đây là quan niệm khá phổ biến trong giới nghiên cứu lý luận văn học nước ta. Theo cách hiểu này,
những tác giả viết tiểu
phẩm nổi tiếng thường được nhắc tới là Lỗ Tấn, Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tất Tố...
Cũng chính do việc xác định những
đặc điểm của tiểu phẩm như vậy nên các nhà nghiên cứu văn học đã xác định tiểu phẩm là một thể loại thuộc ký văn học
(vì nó phản ánh những sự thật đời sống, mà đây lại là một đặc trưng quan trọng nhất của
các thể ký văn học). Những người tán thành quan niệm này còn cho rằng: tiểu phẩm là một thể loại văn học
có năng lực phản ánh những vấn đề thời sự. Tất nhiên, với tư cách là
một thể loại văn học, tiểu phẩm không thể phản ánh được những sự kiện, vấn đề
thời sự cấp bách đang nảy sinh hàng ngày hàng giờ một cách nhạy bén như các thể
loại báo chí. Nhìn chung, nó chỉ có thể phản ánh những vấn đề thời sự hay chủ đề nào đó trong từng giai đoạn trong cuộc
sống.
Các tác giả
của Từ điển thuật ngữ văn học còn cho rằng: tiểu phẩm là “thể loại
tản văn ngắn gọn, xinh xắn nhưng giàu chất trữ tình (...) Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết
lý, có loại thiên về tiểu sử, phong tục, phong cảnh, có loại nghiêng về phê
bình văn học, có loại nghiêng về phổ biến khoa học, lại có loại thuần tuy trữ
tình”… Phong
cách chung của văn tiểu phẩm được xác định ở “tính hình tượng cô đọng, tính
ngụ ý,ngữ điệu trò chuyện, tâm tình, bộc lộ trực tiếp nhân cách
cá tính của tác giả, đê lại ấn tượng nhẹ
nhàng, khoáng đạt”[3].
Có một điều
đáng chú ý là trong các nhà nghiên cứu
văn học nước ta, còn có ý kiến muôn đặt hai thuật ngữ “tạp văn” và “tiểu phẩm”
bên cạnh nhau thành một thuật ngữ ghép. Trên cơ sở cho rằng: tạp văn,
tiểu phẩm là những tác phẩm ký văn học phản
ánh những sự thật trong đời sống, những người tán thành cách hiểu này đã xác định
những đặc điểm của thể loại tiểu phẩm được thể hiện qua các yếu tố hình thức ngắn gọn; có tính chiến đấu cao với cảm
hứng tố cáo mạnh mẽ; giọng điệu linh hoạt, gắn liền với cá tính sáng tạo của
mỗi tác giả; thường sử dụng bút pháp trào lộng, hài hước, châm biếm...
Đi xa hơn nữa, GS. Hà Minh Đức còn nêu ra mối quan hệ giữa tạp văn,
tiểu phẩm với bút ký chính luận: “Có tác giả dùng hình thức ký chính luận để tranh luận, phê
phán kẻ thù nên trong những bút ký
đó yếu tố châm biếm được vận dụng xen kẽ
và có khi thâm nhập vào toàn bộ hình tượng và
ngôn ngữ của bài văn (như trong tạp văn của Lỗ Tấn và
nhiều tiểu phấm văn học của Ngô Tất Tố)”[4].
Quan niệm thứ
hai: xuất phát từ một trong những đặc điểm của tiểu phẩm là phản ánh những
sự thật của đời sống và có thể đáp ứng yêu cầu tuyên truyền thời sự, quan niệm này cho rằng: “tiểu phẩm là một
thê loại tác phẩm báo chí ngắn gọn, mang tính
văn học, được diễn đạt bằng một ngôn ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có
thực, cụ thể hoặc
khái quát mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước sự việc hoặc hiện tượng đó”[5]. Như
vậy, cách hiểu này đã cho rằng tiểu
phẩm là thể loại báo chí nhưng ít nhiều mang tính chất văn học với
ngôn ngữ sinh động, giọng điệu châm
biếm, hài hước.
Quan niệm thứ
ba: tiểu phẩm là thể loại trung gian giữa văn học và báo chí. Những người tán thành quan niệm này cho rằng:
trong từng tác phẩm cụ thể, do tính
chất văn học hay tính chất báo
chí mạnh hơn sẽ quyết định tác phẩm đó thuộc vào văn học hay báo chí.
Theo ý kiến của GS, TS Tạ Ngọc Tấn, chỉ đến cuối những năm 30 của thế kỷ trước, báo
chí Xô-viết mới chính thức thừa nhận tiểu phẩm là một thể loại đặc
biệt - một thể loại châm biếm nằm trong
loại tác phẩm chính luận – nghệ thuật. So sánh
tiểu phẩm với các thể loại báo chí ông cho rằng “một đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm là sự kết hợp những phương pháp thể
hiện của báo chí và thủ pháp nghé thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin
chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật. Sự kết hợp này
rất phong phú, sinh động tuỳ theo tài liệu
về sự kiện khách quan và tài năng của người viết”[6].
Những khác biệt trong các ý kiến nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân xuất phát chính từ sự năng động và linh hoạt của tiểu phẩm trong
quá trình phản ánh hiện thực. Trong thực tế, thể loại đặc biệt này đã thể hiện
rất sinh động sự giao thoa giữa văn học và báo chí. Điều đó đã dẫn
tới những ý kiến khác nhau trong việc xác định vị trí và những đặc điểm của nó. Cũng vì thế, có thể
thấy rằng việc xác định tiểu phấm là thể loại văn học hay thể loại báo chí là
một trong những những điểm then chốt
trước khi đi sâu hơn trong việc nhận diện đúng đắn về những đặc điểm thể loại
của nó.
(xin mời xem tiếp phần 2)
[1] Nguyễn
Ái Quốc, Bản án chế độ thực dân Pháp, (Sđd), Tr. 28 - 44.
[3] Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1992. Tr.291,292.
[5] Nhiều
tác giả, Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội
nhà báo Việt Nam. Hà Nội, 1992. Tr. 248.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét