Bakhtin
viết năm 1929
đến nay đã in đến lần thứ tư ở Liên Xô, được dịch ra hơn mười
thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tuy còn có những chỗ gây tranh luận đòi hỏi minh xác thêm,
nhưng khái niệm “tiểu thuyết đa thanh” mà ông đưa ra đã được thừa nhận rộng
rãi.
Tiểu thuyết “đa
thanh” (hay còn gọi là “đa giọng”, “đa thoại”, “phức điệu”) thực chất là một lối nói hình ảnh chỉ một
quan niệm
nghệ thuật mới, một cách miêu tả mới về con người. Theo Bakhtin, trước Đôstôiepxki và
khác với nhà văn này, tiểu thuyết chủ yếu phát triển trong quan niệm “đơn thanh”.
Đó là
loại tự
sự, trong đó chỉ có tác giả là người duy nhất có ý
thức, biết suy nghĩ và đánh giá mọi sự việc, là vị chúa tể nắm hểt mọi điều bí
mật của cuộc đời.
Còn nhân vật thì chỉ là đối tượng câm lặng cho sự phẩm bình, nhận xét ấy. Tác
giả nhận định con người cũng như nhận định cái cây, đồ vật. Chẳng hạn chuyện ngắn Ba
cái chết của L.Tônxtôi kể về cái chết của người đánh xe, cây bạch dương và
mụ quý tộc, nhưng cả người đánh xe, mụ quý tộc, và tất nhiên, cả
cây bạch dương nữa, không ai biết ý nghĩa cái chết của mình. Chỉ tác giả là
người biết điều ấy
(t367). Ngay cả khi trần thuật theo ngôi thứ nhất, tức nhân vật “tôi” đứng ra kể
chuyện, hoặc là miêu tả nội tâm của nhân vật chỉ là bằng chứng của ý thức tác giả, chứng thực cho chân lý của tác giả về tính
cách và tâm hồn nhân
vật. Chẳng hạn miêu tả “phép biện chứng tâm hồn” trong các nhân vật của
L.Tônxtôi hay truyện vừa nổi tiếng Cái chết của Ivan Ilích của ông. Do
quan hệ giữa nhân vật và tác già (người trần thuật) được quan niệm như vậy nên
nhân vật của văn xuôi “đơn thanh” luôn luôn “trong suốt”. Không có cái gì xảy ra
với nhân vật mà tác giả không cắt nghĩa được. Nhân vật luôn có sự thống nhất phù hợp giữa thế giới bên trong
và biểu hiện bên ngoài, là một tính cách ổn định, nhất quán trong sự phát triển mà ta có thể yên tâm
theo dõi qua các bước thăng trầm của số phận, là một cái gì đã xong xuôi, ngã ngũ như một tổng kết. Không
thể hạ thấp ý nghĩa hiện đại trong di sản các nhà văn cổ điển của thế kỷ trước, nhất là của
Tônxtôi, bậc thầy vĩ đại của biết bao nhà văn thế kỷ chúng ta. Vấn đề là phải ý thức được giới hạn của
một kiểu tư duy thẩm mỹ để thấy trong tiểu thuyết cửa Đôxtôiepxki xuất hiện các giới hạn khác của nhận thức nghệ thuật.
Đôxtôiepxki
không đoạn tuyệt hẳn với lối tư duy “đơn thanh”, nhưng về căn bản ông sáng tạo một thế giới nghệ thuật
khác. Nhân vật của ông chủ yếu được miêu tả như một sự tự ý thức, một dòng tư tưởng, một giọng điệu. Dĩ
nhiên là nhân vật trong tiểu thuyết “đơn thanh”
cũng biết tự ý thức
và suy nghĩ; nhưng đằng này sự tự ý thức trở thành nét chủ đạo, nó không chỉ là đặc điểm của tính cách mà còn là yếu tố thực hiện chức năng
miêu tả: những gì thuộc về nhân vật và thế giới xung quanh nó được đề xuất quá nhận xét của người (t368) trần thuật “đơn
thanh” thì Đôxtôiepxki
đều chuyển qua phạm vi ý thức của nhân vật. Y
biết được tình
trạng, hoàn cảnh và ý nghĩ mình, y cũng biết hoặc đoán ra các nhận xét của
người khác đối với y. Chẳng hạn Đêvuskin trong tiểu thuyết Những người nghèo
soi vào
gương và đau khổ nhận thấy vẻ tiều tụy trên khuôn mặt và áo quần y, y biện bạch với sự chế nhạo có thể có của người khác đối với nghề viên chức nhỏ mọn của y. Vấn đề không chỉ ở
chỗ nhà văn tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật mù mà xem nhân vật
như một ý thức khác, có tính dộc lập tương đối. Theo Đôxtôiepxki,
trong con người bao giờ
cũng có một
cái gì mà chỉ có chính nó là có thể phát hiện
trong hành vi tự ý thức, mọi xác định từ bên ngoài ráp vào đều không phù hợp.
Trong tác phẩm “Người vợ dịu dàng” của ông, một
người chồng ngồi bên thi hài vợ vừa nhảy lầu chết cách đó mấy giờ, với tâm trạng rối bời đáng suy ngẫm về
mọi tình tiết, biện bạch dần dần đưa nhân
vật tới sự thật của y, một sự thật mang ý nghĩa nhân cách sâu sắc. Nếu qua ý
thức người khác, lời người
khác, thì ý nghĩa ấy sẽ mất đi. Châm ngôn sáng tác của Đôxtôiepxki là “tìm
ra còn người trong con người”, “phát hiện mọi chiều sâu tâm hồn của nó”. Nhưng
không thể quan sát, phân tích, xác định
các ý thức người khác như là
các vật vô tri. Cách duy nhất là đối thoại với chúng. Suy nghĩ về nhân vật đối với Đôxtôiepxki có
nghĩa là đối thoại với chúng, gợi cho
chúng tự ý thức
hết mình. Nhà văn giải phóng tối đa cho sự tự ý thức và ngôn từ nhân vật,
thu hẹp sự nhận xét, cắt nghĩa từ phía
người trần thuật. Nhà văn Mỹ Oskar Oaitơ cho rằng “công lao chính của nghệ sỉ Đôxtốiepxki là ở
chỗ ông
không bao giờ cắt nghĩa trọn vẹn các nhân vật(369). Trên
các
trang sách ta
thường bắt gặp những lời “chúng ta không biết”, “chúng ta không rõ” “khó mà giải thích”,
“chỉ biết rằng”...
Trong lời tựa viết cho Anh
em Kàramadốp nhà văn nói thẳng: “Không thề đòi hỏi một sự rõ ràng ở mọi người, nhất là
vào lúc này”. Nhiều động cơ, nguyên nhân hành vi của nhân vật, vẫn nằm
trong bóng tối.
Nhân vật của Đôxtôiepxki không
chịu được sự phán xét giản đơn về tâm hồn người khác. Trong Thằng ngốc
Aglaia nói với
Mưskin khi chàng bình phẩm
động cơ tự sát của Ippôlit: “Anh phán đoán tâm hồn người khác một cách thô bạo. Chỉ có một
chân lý thôi thì sẽ là một sự bất công”. Còn Xtavrôgin
thì nói như quát lên trong tiểu thuyết Những người bị ma ấm: “Nghe đây, tôi không thích
các loại thám tử
và các nhà
tâm lỷ lúc nào cũng
chực xọc mũi vào tâm hồn tôi”.
Người trần
thuật cũng tránh đưa ra những nhận định hoàn hảo có tính chất
tổng kết, xong
xuôi về nhân vật. Theo Đôxtồiepxki con người không bao giờ trùng khít với chính
nó, và sự sống thực sự lại thường diễn ra ở chỗ con người
vượt ra ngoài giới hạn mà nó đã có. Nếu ở Tônxtôi, viên quan,
người sĩ quan hay một địa chủ thường làm những việc theo loại của họ, thì ở Đôxtôiepski
tình hình ngược lại. Nhân vật thường được miêu tả ngoài sự xác định quá khứ của chúng. Ềaxkônnỉkôp là sinh viên nhưng
không học tập,
Rôgôgịn là lái buôn nhưng không buôn bán,
Kirilôp là kỹ sư nhưng không hành nghề, anh em Karamadốp hoặc là cựu sĩ quan,
cựu .nhân viên hay người không có công việc xác định. Nhà văn thích quan sát
những cái bất
ngờ, nghịch lý, phi thường trong tính cách nhân vật, chống lại các
nhận định
cứng nhắc, có sẵn. Nhân vật Phétca Katorginưi trong
Những người bị ma ám nói: “Nếu nói về một người là
thằng đểu thì
ngoài thầng đểu ra
ta không biết gì thêm nữa. Còn nói nó (370) là thằng
ngốc thì ngoài thằng ngốc ra đến cái tên của nó cũng không hay.
Còn tôi thì chỉ có thể là ngốc vào thứ ba, thứ tư, còn đến thứ năm lại minh
mẫn”. Ngày 19/3/1898
trong nhật ký của mình L.Tônxtôi thú nhận rằng: “Một trong những sai lầm lớn nhất về phán đoán
con người là ở chỗ ta xác định một người nào đó là thông minh hay ngu xuân, tốt
bụng hay độc
ác... Thực ra con người có tất cả, có mọi khả năng, nó là một sinh thể không cố
định, ông
muốn xây dựng trong tiểu thuyết Sống lại một con người “dòng sông” nhưng
Nêkhiudôp vẫn
chỉ là một
nhân vật “đơn thanh”, một “người thừa”, một “chàng quí tộc hối hận”. Còn năm mươi năm trước đó, 1848. Đôxtôiepxki đã
thể hiện con người “đa thái” không xác định này trong truyện ngắn Pondunkop. Đó là một con người “có lương tâm nhất,
hào hiệp nhất trên
đời, chàng biết tự trọng và biết phẫn nộ”, nhưng đồng thời chàng
là người “Sợ
thất bại,
hay thẹn thò, luôn mặc cảm về sự hèn kém của mình, cầu xin tha thứ”, lại
là người “liều lĩnh, dám làm mọi việc tồi tệ theo mệnh lệnh đầu tiên”. Thời
đại Đôxtôiepxki là thời đại
xung đột gay gắt giữa các thể chế phong kiến, nông nô suy tàn và các quan hệ tư
sản đang phát triển nhừ vũ bão. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn cho phép ông thể hiện rõ
tính chất chất giải
quyết của các vấn đề xã hội đương thời, những vấn đề quan hệ giữa thiện và ác,
ý nghĩa cụộc sống, vấn đề cam chịu và phản kháng, chủ nghĩa vị kỷ và đức hy sinh, tội ác và hình phạt. Đó cũng là những vấn
đề có ý nghĩa toàn thế giới. Sự giới hạn ý thức người trần thuật, phân biệt nó với
ý thức nhân vật như là ý thức của người khác đã nâng cao tính
khách quan của trần thuật, mở rộng phạm vi chiếm lĩnh tới những miền chưa xác
định của con người (t371).
Khi nhân vật
được thể hiện tập trung ở sự tự ý
thức và lời nói của nó thì quan hệ
nhân vật là quan hệ giữa ý thức và ý thức, giữa lời nói và lời nói. Tồn tại có nghĩa là sống
giữa các ý thức và lời người khác. Do quan
hệ nhân vật thực chất là quan hệ đối thoại. Các sự
kiện thực tế là đề
tài của đối thoại, thúc đẩy quá trình tự ý
thức. Tiêu biểu về mặt này là ba cuộc
gặp gỡ giữa Porphirì Pêtrôvich
và Raxkốnnicôp trong Tội ác và
hình phạt. Đối thoại đây không giản đơn là đối đáp, mà là quan hệ
tất yếu giữa các ý thức
có uy tín và độc
lập như nhau. Đối thoại như của
Platôn, hay trong Luận ngữ chưa tạo nên hiện tượng đa thanh vì đó là đối đáp giữa thầy và trò. Quan hệ người trần thuật và nhân vật
cũng là một quan hệ đối thoại, trong đó nhân vật có xu hướng muốn tranh biện để nói
lên lời cuối cùng về
mình. “Đa
thanh” không có nghĩa là
tương đối ba phải, vi chủ nghia tương đối thực chất là thủ tiêu đối thoại, còn giáo điều thì không
chấp nhận đối thoại. “Đa thanh” cũng không có nghĩa là thu hẹp vai trò qụyết
định của thế giới quan nhà văn
đối với sự thể hiện nhân vật. Vai trò này thể hiện ở sự phát hiện, am hiểu và tổ chức đối thoại
theo một
khuynh hướng nhất định, ở Đôxtôiepxki đó là khuynh hướng dân chú, nhân đạo, chống tư sản và quan tâm vận mệnh nhân dân.
Tiểu thuyết “đa
thanh” mở ra một
khả năng mới để thể hiện tư tưởng. Trong tiểu thuyết “đơn thanh” chỉ có tác giả
là nhà tư tưởng, ở đây tư tưởng
hoặc là điểm xuất phát để lựa chọn, miêu tả, đánh giá, hoặc là kết luận rút ra
từ tác
phẩm, hoặc được thể hiện
qua ý nghĩ, lời nói nhân
vật (t372).
Trong hai trường hợp trên tư tưởng “toát ra” hay được phát biểu ra, trong trường hợp dưới tư
tưởng tác giả không phân biệt với tư tưởng nhân vật, hòa lẫn với hiện thực được miêu tả. Quan
niệm “đa thanh” cho phép miêu tá tư
tưởng như một hiện tượng khách quan. Các vấn đề của sự tự ý thức nhân
vật như thiện và ác, chịu đựng hay nối loạn, ích kỷ hay hy sinh... cũng là các
vấn đề để suy nghĩ về thời đại. Một tư tưởng sống bao giờ cũng
mang nội dung nhân cách sâu sác, tồn tại trong các đối thoại giữa các chủ thể, làm thành
nội dung đối thoại. Các nhân vật của nhà văn bao giờ cũng có một tư tưởng
chưa giải quyết. Đối với Raxkônnikôp trong Tội ác và hình phạt thì đó là vấn đề
tương quan giữa lương
tâm và tội ác. Có thể vì tương lai mình mà hy sinh người thân không? Có thể vì
cải thiện cuộc đời mình mà sát hại kẻ khác không, dù đó là kẻ xấu như mụ già
cho vay nợ? Đối với Ivan Karamadôv là vấn đề tương quan giữa đạo đức và niềm
tin tôn giáo. Phải
chăng hết
niềm tin thì hết
đạo đức? Đôxtôiepxki không bao giờ
bịa đặt ra các tư tưởng.
Chúng thường có các
nguyên hình
trong thực tế. Chẳng
hạn, một nguyên hình tư
tưởng của Raxkốnnikôp là tư tưởng
siêu nhân của Makx Stirner và của Napoleon.
Nhưng nhà văn không saọ chép
các tư tưởng. M. Bakhtin gọi Đôxtôiepxki là nhà nghệ sĩ của tư
tưởng. Ông có biệt tài nghe thấy cuộc đối thoại lớn của thời đại mình, hoặc nhìn
thời đại như một cuộc đối thoại
với những giọng
lớn nhỏ công khai hoặc âm thầm đang tác động vào nhau. Đôxtôiepxki không hay biết đến các tư
tưởng trừu tượng, lửng lơ hay nằm chặt trong hệ thống. Đối với ông, tư tưởng nằm trong sự tự ý thức của nhân vật. Ở chỗ mà người
khác chỉ thấy một tư tưởng, thi ông trông thấy hai, ba; ở chỗ
người khác chỉ nhìn thấy một mặt, ông nhìn ra mặt trái. Người ta gọi nhân vật của Đôxtôiepxki là
nhân vật tư tưởng, điển hình
tư tưởng, vì
chúng xuất hiện (373) trong
tác phẩm chỉ
để thể hiện, giải quyết một
tư tưởng. Như
vậy, với quan niệm “đa thanh” của Đôxtôiepxki ta có thể làm phong phú cho quan niệm của chúng ta về các điền
hình hiện thực chủ nghĩa.
Để thể hiện ý
đồ nghệ thuật của mình Đôxtôiepxki đã sử dụng một hệ thống tình tiết, kết cấu và ngôn ngữ độc đáo
phù hợp với truyền thống
lâu đời. Để bộc
lộ “con người trọng con người”, ông thường sử dụng tình tiết phiêu lưu,
những giấc mơ,
những trạng thái tâm thần khác thường, vì trong các trường hợp ấy con người không thế sống với những gì ổn định bề ngoài,
mà là với bản chất
bên trong. Con
người với những
biến động bất ngờ thường xuất
hiện nơi không gian “ngưỡng cửa”, nằm trên ranh
giới giữa bên trong và bên ngoài, nơi cửa
ra vào, hành lang, cầu thang, phòng ngoài... Phòng của RaxkẠtinikop cửa không bao giờ đóng, thông ra
quảng trường, đường phố... Thời gian tình tiết thường là thời gian khủng hoảng trong cơn bế tắc như trước khi chết, trước
và sau vụ sát nhân
hay một lựa chọn rung động
toàn nhân cách. Đó là
thời điểm con người không thể sống yên ổn.
Thêm vào đó, không
khí đầy
những nghi kị,
khiêu khích, kích động, câu nói lăng nhục... càng thúc đẩy thêm quá trình tự ý thức, khêu gợi nhu cầu suy nghĩ,
thổ lộ, biện bạch, đối thoại.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Đôxtốiepxki không thể được hiểu đúng theo tiêu chuần cá
thể hóa thông
thường. Tính biểu hiện của nó gắn liền với cấu trúc “đa thanh” của nhân vật. Nhân vật ở đây luôn cảm
thấy áp lực của ý thức và lời nói người khác hướng vào minh. Y phải né
tránh, phân trần, biện bạch; đánh lảng. Đối đáp bên ngoài thường là kích thích cho đối
thoại thầm kín với người khác (t374). Đặc điểm này làm cho ngôn ngữ nhân vật như xoắn lấy người nghe,
người đọc,
bám riết lấy họ không
chịu buông tha
với những lời sống động đầy xót xa,
phẫn uất, băn khoăn, lo lắng. Ngôn ngữ “đa thanh” đòi hỏi sử dụng các phương tiện biểu hiện
khác so với ngôn ngữ “đơn thanh”.
Như vậy là
phát hiện ra một quan niệm nghệ thuật độc đáo về con người và cuộc đời đã dẫn
đến sự đổi mới trong hình thức tiểu thuyết, mở rộng khả năng phản ánh của nó. Thi
pháp của Đôxtoiepxki góp phần cho ta hình dung sự đa dạng vốn có của các hình thức khái quát nghệ thuật
của chủ nghĩa hiện thực, khắc phục một quan niệm đơn điệu, nghèo nàn về phương
pháp sáng tác này. Nó cho thấy đối với nhà văn cái quan trọng không chỉ là vốn sống, thế giới quan, không chỉ là biết nhìn nhận và đánh giá đúng các hiện tượng
quan trọng của thời đại về mặt chính trị, mà còn phải biết phát hiện ra những cái nhìn nghệ thuật độc
đáo đủ sức rọi một luồng ánh sáng mới tới những khía cạnh đời sống còn bị che giấu bởi cái nhìn
nghệ thuật đó (t375).
|
Văn nghệ
Quân đội,
tháng 10/1985
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét