Khiemnguyen

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

"PHONG CÁCH LÀ NGƯỜI" - Ý THỨC CÁ TÍNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM



Văn nghệ Việt Nam hiện tại đang cần phát huy cá tính để khai thác tiềm năng sáng tạo của con người. Kêu gọi “cởi tróỉ” trước hết, thiết nghĩ cũng là cởi trói cho cá tính. Bởi vì mục đích cuối cùng của chúng ta như Mác đã nói, là tạo ra một xã hội trong đó sự phát trién tự do ca mi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tt c. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao ý thức về cá tính; đối thoại với ý thức cá tính của mọi xã hội và thời đại, trong mọi lĩnh vực đời sống, bao gồm cả văn học cổ và kim.
Cho đến nay, vẫn có người hiểu cá tính là tính độc đáo tự nhiên của con người, nhưng một quan niệm căn bản triết học thì phải nhận định rằng cá tính là một hiện tượng xã hội, lịch sử, kết quả của sự phát triển văn hóa, xã hội trên cơ sở các thuộc tính tự nhiên. Có thể nghĩ rằng, ở đâu và thời nào cũng tìm được những người có cá tính độc đáo, thú vị. Nhưng vấn đề quan trọng hơn là một quan niệm về cá tính ngự trị trong xã hội sẽ quy định, cho phép người ta nhìn nhận cá tính tới mức nào, và ngược lại, ý thức về cá tính ấy lại quy định các mô hình phát triển cá tính cụ thể ra sao.
Xét chung, văn học cổ thuộc vào giai đoạn văn hóa quần luân, trong đó bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng, giá trị cá nhân nằm trong giá trị quần thể (t174). Nói như Mác, đó là giai đoạn văn hóa mà mỗi cá nhân cảm nhận đặc điểm chung của tầng lớp, đng cp như lá cá tính tự nhiên ca mình. Con người ý thức cá tính của nó trong các chuẩn mực. Đó là “anh hùng”, “nhà thông tháị” của người Hi Lạp cổ, là công dân” của người La Mã cổ, là trượng phu, quân tử của người Trung Hoa cổ, hoặc là hiệp sĩ có danh dự của châu Âu trung đại, “con người vạn năng” của thời Phục hưng, “Gientơlơmen” của người Anh thế kỷ XVIII v.v...
Với ý nghĩa đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng khó mà vận dụng khái niệm cá tính vào những người như Antigôn, Trixtan, Gian Đác, Xôcrát, Ôguytxtìn... Cả nhà sư Nhật tài hoa Ichkiu Xôdiun thế kỷ XV, người tạo ra vườn đá, đạo trà cũng vậy, bởi vì dù khác nhau như thế nào hoạt động của họ đu nhằm khẳng định mình trong cái vô ngã. Bản thân từ “cá nhân” được cấu tạo bằng từ individu, nghĩa là một cái không thể chia ra thêm nửa của một cái đã được chia ra từ cái chung!
Ý thức thực sự về cá tính như một phạm trù văn hóa mới mà ta thường nói, nhưng không phải lúc nào cũng ý thức được rõ, thực ra chỉ hình thành ở châu Âu từ Gớt, Humbôn, Điđơtô, Buypphông, Căng... kết thúc một quá trình ý thức nhen nhóm từ Môngten. Đecác... Đó là bước ngoặt lớn tạo ra một hệ quy chiếu mới để ý thức cá tính con người như một giá trị tự thân. Giá trị tự thân là cái khổng có tiền lệ, không thể so sánh và bắt chước theo kiểu noi gương, khó tránh khỏi những cách hiểu tuyệt đối, cực đoan. Thoạt đu, người ta ý thức nó qua khái niệm thiên tài. Điđơrô xem thiên tài là cái không có quy tắc, Căng xem thiên tài là kẻ tạo ra quy tắc cho nghệ thuật. Buypphông ý thức cá tính qua phong cách: phong cách ấy là con người, ít lâu sau trong thế giới tha hóa tư sản người ta ý thức cá tính qua phạm trù “quỷ sứ(Bàirơn, Lécmôntốp...) (t175) hoặc qua “thân phận cô đơn” như chủ nghĩa hiện sinh của thế kỷ này... Sự phát triển tự do của cá nhân mà chúng ta mơ ước trong tương lai s đem lại một thời, khi đó, sự đối lập “chủ nghĩa cá nhân” và “chủ nghĩa tập thể” sẽ không còn ý nghĩa, bởi vì một chủ nghĩa tập thể tối cao không phải là cái chuẩn mực cộng đồng giản đơn trùm lên cá tính, mà là một sự thống nhất tự do của những cá tính có ý thức phát triển ngang quyền, giao tiếp và đối thoại với nhau để cùng phát triển bản thân và xã hội.
Sự ý thức về cá tính trong văn học cổ Việt Nam nói chung không thoát khỏi quy luật phổ biến, nhưng tính đặc thù. Trong văn hóa quần luân, khi mà “khắc kỷ phục lễ”, “tiên học lễ hậu học văn (lễ là một phạm trù chính trị - đạo đức phong kiến) là phương châm răn mình, luân thường là khuôn đúc của nhân cách thì cá tính có thể tự ý thức được bằng cách nào ngoài các phạm trù “siêu chuẩn” hoặc “phi chun”? Các phạm trù đó có thể là “anh hùng”, “k khí”, “tài tình”, “nghịch tử” hoặc các phạm trù tướng số, vận mệnh. Nó cũng được ý thức qua phạm trù “tâm sự” mang tính chất trữ tình - Nguyễn Trãi, một đời “phỏng dạng đạo tiên nho” đặ tự ý thức mình trong “tài” ngạo sương tuyết, tế thế, kinh bang: “Đống lương tài cố bằng mấy mày, Nhà cả đòi phen chống khỏe thay!”. Nhưng cũng như số mệnh, đó là “loại cá tính”, ông cũng cô đơn, nhưng lại là “cô trung”. Quan niệm cá tính này còn ảnh hưởng mãi tận sau này. Nhưng đến thời Nguyễn Du với sự suy đồi của xã hội và của ý thức phong kiến, các trượng phu, quân tử nhường chỗ độc tôn một thời của nó cho các tàí tử xuất hiện trên văn đàn... (t176).
Nhưng tài không gin đơn là cái để khoe mà kiếm ăn và hưởng lạc, xét từ góc độ văn hóa, nó chính là một phạm trù để ý thức về cá tính, để nhận ra cái giá trị tự thân không lặp lại của con người. Người tạ tự khẳng định mình bằng cái tài. Người ta cũng thất vọng ln bằng cái tài. Nguyễn Du trong thơ chữ Hán kêu lên: “Trời giáng kỳ tài mà không có ch dùng”, “Phàm người có kỳ khí thì trời đất ghen ghét”. “Tài mệnh tương đố” là khái quát về thực trạng cá tính bị vùi dập. Nhưng đáng chú ý là cái mô hình tài thời này, “Tài tử” không phải là “người tài” theo quan niệm thông thường. Người tài tử là kẻ lấy “ngông” làm tài, tài thoát ra các thói tục, vì vậy nó gắn rất chặt với tài tinh. Ngông là một hình thức đặc thù của cá tính trong văn hóa qun luân. Từ đây trở, đi cho tới đầu thế kỷ này, có nhà văn nhà thơ nào có cá tính mà không “ngông”? Hồ Xuân Hương., Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguỵễn Khuyến, Tú Xương, cho đến Tản Đà rồi Nguyễn Tuân sau này... Mỗi người ngông mỗi vẻ, nhưng đều có cái chung là vượt lên, đi ngựởc lai thói thường một cách lộ liễu. Nhưng cái ngông Việt Nam nặng về để chơi, để ngạo, để tự biểu hiện. Con hiếm cái ngông kiểu Prômêtê hay Phaoxtơ. Cái ngông của cá tính Việt Nam thường hướng tới sự khinh mạn mà ít làm ra cái mi. Thâm trm hơn là hình thức tâm sự” mà Nguyễn Du gọi là “tấc riêng”, tấm riêng”, “một mình minh biết, một mình mình hay”. Đó là phạm vi thương tâm nhất của kiếp người khi cái tôi bị bỏ quên, bơ vơ, khát khao một niềm thông cảm của hậu thế. “Sầu”, “hận”, “oan”, “oán” lẽ là những phạm trù mỹ học chủ yếu để ý thức cá tính trong thơ văn xưa. Sầu là ý thức về sự bất lực trước một ước mơ tan vỡ, hận là cái đau đn cho một khả năng bị phí hoài oan là ý thức về những giá ) trị bị chà đạp vô cớ, oán tiếng kêu của cá tính bị vùi dập (t177).
Mấy chục năm trước cách mạng Tháng Tâm, trên văn đàn công khai một “thời đại chữ tôi” xảy đến. Nếu các cá tính cách mạng tự ý thức mình trong vai trò sứ giả và xả thân, thì trong văn thơ lãng mạn, cái tôi tự ý thức dưới hình thức cởi mở của cảm giác trẻ trung, thành thực có tính chất tự thú, tự ngm và tự nghiệm. Chính sự thành thực đã giải phóng cá tính, giải phóng cảm giác, tưởng tượng, giải phóng sức diễn đạt và cảm nhận ngôn từ. Chính sự thành thực của cảm giác cá nhân được giải phóng làm cho thơ văn đa dạng chưa từng có. Cái buồn, sầu vn là phạm trù mỹ học chủ đạo để cá tính tự ý thức về sự mong manh, bất !ực và khao khát của mình. Nói như Hoài Thanh do “thiếu một lòng tín đy đ”, nhưng nó phố biến hơn, và nhiều lúc được ý thức như một cái gi thuộc bản th của tn tại.
Trong văn học cách mạng sau 1945, cá tính chủ yếu được hiếu như là biểu hiện cá thể của cái chung, 1à cái tạo thành sự đa dạng của cái chung. Nhiều người hiểu cá tính là cái “tạng”, một đặc trưng gàn như thế chất, như thế tạng nhiệt, tạng hàn, một cái gì bm sinh hơn là sản phẩm xã hội. Nhiều khi cá tính được hiu qua đặc điểm môi trường: cá tính Nam Bộ, tính Nghệ Tĩnh. tính còn được hiểu là bn lĩnh trong sự thế hiện cái chung. Quan niệm cá tính đó không m ra phía cá tính tư tưởng sáng tạo, ở tình cảm chân lý, ở khả năng lệch chuẩn để tạo ra cái mới. Đó chính là lý đo làm cho văn học Việt Nam thời gian qua chưa được phong phú, bởi vi sự phong phú thực sự của văn hoc, thiết nghĩ là phong phú về tư tưởng, quan niệm, chứ không phải do nhiều cái tạng (t178).
Văn học Việt Nam đang nhận thức lại cá tính, đánh giá lại vai trò cá tính trong cuộc sống, đang tìm một quan niệm mới để cá tính được phát triển thuận chiều. Cá tính sáng tạo trong văn học trước hết là một người tiên giác, là năng lực đưa ra những ý tưởng mới về đời và con người có căn c sâu xa. Những ý tưởng ấy thot nhìn có thể còn lạ lẫm, khó chấp nhận, nhưng chắc chn sẽ trở thành được chấp nhận và phổ biến, trong ngày mai. Chức năng dự báo của văn học đâu phải là báo trước những sự kiện, sẽ xảy tới như không ít người hiểu lm. Đó là dự báo kiểu thầy bói!
Văn học báo trước những ý tưởng, những cách nghĩ cần có và sẽ trở thành phổ biến. Cá tính hôm nay mang nội dung gì, nó tự ý thức qua những phạm trù nào, đóng vai trò gì là những vấn đề đang cần được xem xét. Điều chắc chắn là cá tính đang thức tỉnh, đang tự xét, cựa quậy, tìm tòi, và đang ước mơ một thời được phát triển tự do (t179).

Văn nghệ, số 23/1990

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét