(NGUYỄN BÙI KHIÊM) Kỹ nghệ báo chí và xuất bản nhập cảng vào Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Trước ngày Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, báo chí chưa hề hiện hữu tại vương quốc Ðại Nam. Nghề in cũng còn thuộc tiểu công nghệ, tập trung tại kinh đô cùng Hà Nội và Sài Gòn (Phiên An).
Tờ báo đầu tiên xuất hiện tại Ðông Dương là tờ Le Bulletin Officiel d’Expédition de la Cochinchine [Thành tích biểu viễn chinh Nam Kỳ], bằng Pháp ngữ. Số 1 ra mắt ngày 29/9/1861. Tiếp đó là tờ Le Bulletin des Communes [Thành tích cộng đồng], bằng Hoa ngữ, số 1 ra năm 1862, rồi thêm tờ công báo bằng Pháp ngữ Le courrier de Saigon [Sài Gòn thời báo]. (Ngày 5/9/1865, báo này khởi đăng loạt bài “Notes historiques sur la nation annamite” [Những ghi chú về quốc gia an-nam-mit] của Théophile Le Grand de la Liraye, đưa ra “thuyết” người Giao Chỉ có hai ngón chân cái chạm vào nhau khi đứng thế nghiêm!)
Mãi tới ngày 15/4/1865, tờ báo đầu tiên bằng chữ Việt mới–dựa theo chữ cái Latin và dấu xướng âm Portuguese–mới chào đời ở Sài Gòn, tức tờ Gia Ðịnh Báo. Tuần báo này phát không trong các làng mạc miền Nam để phổ biến chính sách của Pháp. Tháng 9/1869, Trương Vĩnh Ký (tức Petrus Key, 1837-1898) được cử làm Tổng tài (Chủ biên) cho tới năm 1872.( 4) Tất cả bốn tờ trên đều là cơ quan ngôn luận của Soái phủ Sài Gòn, do Linh mục Thanh tra Bản xứ vụ [Inspecteur des affaires indigènes] Le Grand de la Liraye (tức cố Trường) điều khiển, với sự phụ tá của nhóm Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), Petrus Key, v.. v.. thuộc Ban thông ngôn Soái phủ. Gần cuối thập niên 1880, Petrus Key cũng ấn hành một tờ học báo, với tựa Miscellanées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales, cantonales et les familles [Thông Loại Khóa Trình]. Báo ra hàng tháng, từ tháng 1/1888 tới tháng 10/1889; nhằm cung cấp bài dạy cách trí cho học sinh tiểu học và sơ học cấp tổng, cấp xã. (5)
Theo tài liệu Pháp, tờ báo thứ hai bằng Việt ngữ là Nam Kỳ, do A. Schneider xuất bản ngày 21/10/1897. (Số báo 46, ra ngày 8/9/1898, có bài về Petrus Key cùng một chân dung với đủ huy chương Pháp-Việt, kể cả Bắc đẩu Bội tinh) Tờ thứ ba là Phan Yên báo (Phan Yên là tiếng nói lái của Phiên An, tức Sài Gòn). Báo này vừa ra mắt thì phải đóng cửa ngay vì Nghị định ngày 30/12/1898. Ðiều 2 của Nghị định trên qui định rằng tất cả các báo không viết bằng Pháp ngữ phải đưa kiểm duyệt trước khi phát hành.( 6)
Riêng báo tư nhân bằng Pháp ngữ phát triển khá mạnh ở Nam kỳ và rồi Bắc kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Ðáng kể nhất là tờ Le Cochichinois (1888-1893), Le Courrier de Saigon (1889-1900)/Le Mékong (1893-1901) của một nhóm tả phái ở Sài Gòn, với lập trường chống Hội truyền giáo. Báo có số phát hành cao nhất ở miền Bắc là L’Avenir du Tonkin [Tương lai Bắc kỳ] (1884-1940), do Hội truyền giáo chi phối (chuyển qua nhật báo năm 1901) và L’Indépendance tonkinois [Nền độc lập của Bắc Kỳ] (1889-1940). Năm 1892, tờ Le Courrier d’Haiphong [Hải Phòng Thời Báo] (1890-1940; chuyển qua nhật báo năm 1908; BNF, Jo 5912) từng gây náo động triều Huế qua bài viết về âm mưu của Diệp Văn Cương đưa Thành Thái (1889-1907) lên ngôi năm 1889. L’Avenir du Tonkin cũng gây nên những cuộc bút chiến với Camille Pâris hay Ulysse Leriche, người đỡ đầu Nguyễn Ái Quốc vào nghề báo trên tờ L’Humanité trong thời khoảng 1919-1923. Năm 1907, L’Avenir du Tonkin còn lên án các viên chức “Tam Ðiểm” Pháp “truy diệt tôn giáo” qua việc truất phế vua Thành Thái–người có tin đã được một thày kẻ giảng bỏ tu bí mật rửa tội trước khi lên ngôi, hoặc khi đang ở ngôi.
Ðầu thế kỷ XX, mới xuất hiện một số báo tiếng Việt hoặc song ngữ (Hán-Việt) trong một thời gian ngắn. Tại Hà Nội, có Nông Cổ Mín Ðàm (1904), Ðại Nam Ðăng cổ tùng báo (1907), và Ðại Việt Tân báo (1905-1908). Tại Sài Gòn có Lục tỉnh tân văn (1907, 1910). Sự chậm phát triển này có nhiều lý do. Số độc giả chữ Việt mới còn rất giới hạn. Cho tới năm 1908, khắp ba kỳ mới có 167 người (kể cả Nguyễn Sinh Côn) đậu bằng tiểu học Pháp-Nam. Ngoài ra, luật báo chí ngày 30/12/1898 rất khe khắt.
Nhân vật lừng lẫy nhất trong giới văn bút thời gian này là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Tốt nghiệp trường thông ngôn Hà Nội năm 1896, Nguyễn Văn Vĩnh làm thư ký cho Tòa Thống sứ tới năm 1907 mới đổi qua nghề báo. Ngoài tờ Ðại Nam Ðăng cổ tùng báo (1907), ông còn chủ trương tờ Notre Journal [Báo của chúng ta] (1908) và Notre Revue [Tạp chí của chúng ta] (1910) tại Hà Nội, rồi hợp tác với tờ Lục tỉnh tân văn (1910) ở miền Nam. Năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút nhật báo Ðông Dương tạp chí. Hai năm sau, kiêm chủ bút Trung Bắc Tân Văn [Tin tức Trung và Bắc Kỳ] (15/5/1915-1918), phụ bản hàng tuần của Ðông Dương tạp chí. Francois Schneider là chủ nhiệm.( 7)
Gần cuối Thế chiến thứ nhất (1914-1918), làm báo trở thành một nghề. Miền Nam có tờ La tribune indigène [Diễn đàn bản xứ] (1917-1919), và miền Bắc có Trung Bắc Tân Văn cùng Nam Phong. Cả ba tờ báo trên đều được sự trợ giúp, cách này hay cách khác, của chính quyền Bảo hộ Pháp. La tribune indigène do Charles Nguyễn Phú Khai (1887-?) cùng nhóm trí thức Tây học ấn hành. Nguyệt san Nam Phong, xuất bản số đầu tiên ngày 1/7/1917(BNF, MICR D-998), là tiếng nói bán chính thức của cơ quan an ninh Pháp, do Louis Marty thuộc Tổng Nha Thanh tra Chính trị, cơ quan tiền thân của Nha Liêm Phóng (Mật Thám, hay Sureté) Pháp, làm Chủ nhiệm. Ban biên tập do hai người Việt phụ trách: Phạm Quỳnh (1892-1945) lo phần quốc ngữ mới, trong khi Cử nhân Nguyễn Bá Trác (?-1945), một cựu du học sinh Ðông Ðộ, gốc Quảng Nam, phụ trách phần chữ Nho [Hán].( 8) Từ năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh trở thành chủ nhiệm nhật báo Trung Bắc Tân Văn, đồng thời ra tờ Học Báo.( 9)
Thập niên 1920 chứng kiến sự phát triển mạnh của báo chí và ngành xuất bản tại Nam và Bắc Kỳ.
Tại Nam kỳ, gây chú ý nhất là các tờ Le Courrier indochinois [Ðông Pháp Thời Báo] (1923-1928) của Nguyễn Kim Ðính (sau bán cho Diệp Văn Kỳ, con Diệp Văn Cương); Trung Lập (16/1/1924-30/5/1933) (BNF, Jo 93899), và Sài Thành nhựt báo của Trương Duy Toản (1885-1907), tức Mạnh Tự; La tribune indochinoise [Diễn đàn Ðông Dương] (6/8/1926-1942), cơ quan ngôn luận của Ðảng Lập Hiến, do Bùi Quang Chiêu (1873-1945) làm Chủ nhiệm, và L’Echo annamite [Tiếng vọng An Nam hay Dư Luận] của Nguyễn Phan Long (1889-1960).(10) Ngoài ra, còn tờ Lục tỉnh tân văn (1927-30/9/1944) của nhóm Nguyễn Văn Của-Lê Quang Liêm (1881-1945) tự “Phủ” Bảy.(11) L’Echo annamite, L’Impartial, Trung Lập và Lục tỉnh tân văn giữ bề ngoài trung lập.
Riêng bán tuần báo La Cloche fêlée [Chuông rạn] bằng Pháp ngữ đứng hẳn về phe đối lập, đòi hỏi dân chủ và dân quyền cho người Việt. La Cloche Fêlée do Nguyễn An Ninh (1900-1943), Cử nhân Luật năm 1921, xuất bản tại Sài Gòn từ ngày 10/12/1923 tới 14/7/1924 thì tự ý đình bản. Ngày 26/11/1925, báo tục bản với Luật sư Phan Văn Trường (1878-1933) làm Giám đốc chính trị. Theo E. Dejean de la Bâtie, Luật sư Trường là “một người An-Nam toàn vẹn (un annamite complet).” Cũng ngày này, Phan Văn Trường cùng Nguyễn An Ninh và Bâtie yêu cầu hủy bỏ lễ đón tiếp Toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1927) và đưa kiến nghị (Cahier des Voeux Annamites) để phản đối việc Phan Bội Châu bị kết án chung thân khổ sai ba ngày trước.( 12) Nhóm La Cloche Fêlée luôn đòi hỏi cải cách xã hội, luật pháp và giáo dục, hủy bỏ chế độ quân chủ, thay bằng chế độ Cộng hòa. Báo cũng đăng tải nhiều khảo luận về các biến cố lịch sử, như cuộc du hành của vua Duy Tân năm 1916, v.. v... Thái độ của viên chức thuộc địa với nhóm La Cloche Fêlée khác hẳn với nhóm Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Bài, Bùi Quang Chiêu, hay Nguyễn Phan Long v.. v... Mặc dù có phần vị nể Phan Văn Trường, Thống đốc Maurice Cognacq (1922-1926) bí mật yêu cầu Varenne ngăn chặn những hành vi “phỉ báng các viên chức thuộc địa Pháp cùng giới quan lại Việt” (Như hô hào dân chúng đừng đón tiếp Varenne, gọi Bảo Ðại là le roi bé con, hay Khâm sứ Pasquier là thằng). Sau khi Nguyễn An Ninh bị câu lưu ngày 24/3/1926 [kết án 18 tháng tù, nhưng ngày 7/1/1927 được đặc xá], báo đổi tên thành L’Annam. Ra được hơn một năm (6/5/1926 tới 25/7/1927), lại phải đóng cửa vì Luật sư Trường bị bắt ngày 21/7/1927 và truy tố ra tòa. Ngày 12/1/1928, L'Annam tục bản được ít số, rồi đình bản vĩnh viễn từ ngày 2/2/1928.( 13)
Tại Bắc kỳ, ngoài hai tờ Trung Bắc Tân Văn và Nam Phong, còn có thêm một số báo tư nhân như Thực nghiệp Dân báo (1920-1933), Hữu Thanh (1922-1924) (BNF, MICR D-982), An Nam Tạp chí, v.. v... (14) Năm 1924, Tiến sĩ Ngô Ðức Kế (1878-1929) từng mượn tờ Hữu Thanh để đả kích “con đĩ” Thúy Kiều trong tác phẩm Ðoạn trường tân thanh [Tiếng kêu đứt ruột mới], hay Truyện Kiều, mà Phạm Quỳnh ca ngợi như “quốc hồn, quốc túy.”
Riêng miền Trung, cho tới năm 1926, vẫn chưa có một tờ báo nào. Hai tờ báo được đọc nhiều nhất từ Bình Ðịnh trở ra là Trung Bắc Tân Văn và Nam Phong. Chính trong khoảng trống báo chí này của miền Trung, Huỳnh Thúc Kháng và những người ủng hộ đã khai sinh Tiếng Dân./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét