(Nguyenbuikhiem@gmail.com) Có nhiều ý kiến cho rằng, phong cách tản văn của Ngô Tất Tố chịu nhiều ảnh hưởng của các cây bút nổi tiếng cùng thời trong đó có Tản Đà, đó là ý kiến của người khác khi nghiên cứu về Ngô Tất Tố. Còn quan điểm của cụ Ngô như thế nào về vấn đề này, phải tìm cho được phát biểu của chính Cụ. Tra cứu ngược để tìm về cội nguồn của văn bản mới thấy, Cụ Ngô đã có một bài viết về Tản Đà trên Tao Đàn số đặc biệt, đây vừa là tình cảm, vừa là sự tri ân của Cụ dành cho Tản Đà. Qua đó, cũng có thể thấy Cụ Ngô đã chịu ảnh hưởng về phong cách của Tản Đà thế nào. Trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
|
Ngô Tất Tố
(Tao Đàn, số đặc biệt về Tản Đà, 1939)
|
Từ khi Tao
Đàn dự bị ra số đặc biệt về giấc mộng lớn của ông Tản Đà, các
ông toà soạn có bảo tôi viết một bài, đầu đề mặc tôi lựa chọn.
Cái đó là lẽ tất nhiên.
Đem cái giao tình của tôi với ông Tản Đà đặt trước cảnh kẻ còn người
khuất, nghĩa vụ của tôi đã buộc tôi không thể khiết nhiên với số tạp chí có ý nghĩa
ấy. Huống chi lại thêm có lời yêu cầu của anh em.
Chỉ tiếc lâu nay tôi ít gần ông Tản Đà. Từ ngày ở Nam ra Bắc, thấm
thoắt đã đúng mười năm, tôi chỉ gặp ông độ bốn, năm lần, mỗi lần chừng nửa giờ
hay một giờ. Trong khoảng đó, tính tình tư tưởng của ông ra sao, tôi không được rõ. Và
tôi biết ông cũng lại khí muộn. Cái năm 1925, tôi dịch cuốn Cẩm hương đình bán cho Tản Đà thư
điếm, bấy giờ mới giáp ông một lần đầu tiên. Trước đó, thân thế ông thế nào
tôi cũng không được biết kỹ.
Vậy thì, về ông Tản Đà, tôi sẽ viết gì. Phê bình, văn nghiệp hay tán dương nhân phẩm của ông, hẳn
là những việc mà một người đã thân với ông như tôi không được phép
làm.
Tôi đã nghĩ đi, nghĩ lại. Trong cái trang thi sỹ của cuốn Việt
Nam Văn học sử sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà vẫn là một người đứng đầu của thời đại
này. Thế thì bao nhiêu dật sự của ông, có lẽ đều là tài liệu để cho người sau khảo
cứu về ông. Nhưng những dật sự của ông ở Bắc, bà con nhắc đã nhiều người biết
rồi. Cái mà, ngoài tôi, trong các bạn thân của ông ở đây, ít ai hiểu rõ,
có lẽ chỉ là thời kỳ ông ở Nam.
Vì vậy, tôi mới chọn cái đầu đề trên kia. Và tôi sở
dĩ phải nói ra ngoài đề nhiều thế, chỉ cốt để khỏi có ai phải hỏi tại sao tôi
viết về ông Tản Đà có vậy?
Ông Tản Đà vào Nam tất cả ba lần. Lần cuối cùng tôi
không được biết. Lần thứ nhất, cái có đã đưa ông đi chỉ là sự thất bại của An
nam tạp chí.
“Khi ấy An nam tạp chí ra ở hàng Lọng. Trong toà soạn có ông và tôi. Cái tài viết báo của của
ông thế nào, chắc ai cũng đều rõ cả. Còn tôi, thì mới bắt đầu bước vào làng báo, sức
lực hãy còn non nớt, nhiều bài đến nay nhớ lại mà xấu hổ mướt bồ hôi. Ấy vậy mà An nam tạp chí vẫn được độc giả hoan
nghênh, nhất là độc giả trong Nam.
Cái đó hoặc giả cũng là dư trạch của “Giấc mộng con”, “Khối tình con” để lại”[1].
Nguyên nhân làm cho tờ tạp
chí ấy phải chết là rượu. Đành rằng nếu không có rượu, thì ông Tản Đà sẽ không
thành ông Tản Đà. Nhưng trong khi nó làm cho ông Tản Đà thành ông Tản Đà, chính nó cũng là thủ phạm làm cho An nam tạp chí
không có bài đưa nhà in.
Bấy giờ An nam tạp chí xuất bản mỗi tháng hai kỳ, nhưng mấy tháng sau, nó đã
đảo lại: mỗi kỳ hai tháng.
Trong lúc chiếc “thuyền nan” đã bị hết sức trèo
chở, thì ông Tản Đà tiếp được bức thư đầy những hứa hẹn của một bạn đọc trong
Nam, ký tên là Nguyễn Thành Úc. Đặt hy vọng chứa chan vào bức thư ấy, ông Tản Đà
mới quyết đi Nam. Khi tới Saigon, cái hy vọng ấy đã bị tiêu tan trong lúc giáp mặt
người viết thư, thì ông Tản Đà lại gặp ông Diệp Văn Kỳ.
Với một nghìn đồng bạc của ông Kỳ đưa tặng ông
Tản Đà lại trở về Bắc để trang cái
nợ của An nam tạp chí.
Rồi ông lại vào Nam khi số tiền đó không còn đồng nào trong túi. Đó là lần
thứ hai.
Lần này, ông có ý muốn “đóng đô” ở Nam, cho nên tới nơi ít lâu, thì ông
có thư ra gọi gia quyến và bảo tôi vào để viết An nam tạp chí.
Chẳng ngờ khi tôi vào đến Saigon, ty kiểm duyệt
trong ấy không nhận duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An nam tạp chí
không thể ngụ cư ở đó, ông Tản Đà mới giới thiệu tôi vào viết với
ông, cái trang văn chương trong Đông
Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ.
Ở chỗ này hình cũng cần phải nói
đến tiền. Là vì trong những cái khác người của ông Tản Đà, đức tiêu tiền cũng
nên để ngang với tài thơ và tài rượu.
Bấy giờ ở Đông Pháp thời báo, lương của tôi là 80
đồng, của ông Tản Đà một trăm, và ngoài ra, mỗi tháng ông còn vay riêng của ông
Diệp Văn Kỳ thêm một trăm nữa. Vậy là hàng tháng chúng tôi có tới 280 đồng. Nhưng
không tháng nào mà ông Tản Đà không phải lật đật về chạy tiền nhà.
Cái nhà của chúng tôi ở kế tiếp với Xóm Gà, nó là một
nơi nhà quê thuộc làng Bình hoà, cách Bà Chiểu độ 4 cây số và cách Saigon độ 10
cây số. Nhà có bốn gian. Một
gia đình ông và tôi thuê một gian thì cũng hơi chật, nếu thuê hai gian, thì đủ
lắm rồi. Nhưng vì toà nhà ấy mới làm xong, chúng tôi là khách đến ở đầu tiên, cho
nên ông Tản Đà nhất định thuê cả bốn gian: một gian làm buồng ngủ, một gian làm
buồng giấy, một gian làm buồng ăn, còn một gian nữa thì để mắc cái võng đem ở Bắc vào.
Theo sự xếp đặt ấy, sau khi nhà đã thuê xong, ông
Tản Đà liền đi mượn người phá mấy bức tường ở giữa để lấy đường thông gian nọ sang
gian kia và lấy gạch xây cái bể cạn.
Giá nhà này cũng không lấy gì làm đắt. Tất cả bốn gian, có hai tám đồng. Với
số lương của chúng tôi, nó chỉ là một phần mười chứ gì. Thế mà
tháng nào cũng phải khất độ vài bốn hẹn.
Tôi còn nhớ, một hôm chủ nhà thúc giục riết
quá, ông Tản Đà, sau khi đã ăn cơm tối, phải thân hành lên tận
Saigon xoáy tiền. Vào khoảng 11 giờ đêm, thì thấy ông về với chai rượu rhum, con
vịt quay và vài món khác. Mới toạt vào cửa, ông liền nói với tôi bằng giọng ngạc
nhiên:
- Hỏng cả ông ạ!
Tôi hỏi cái gì thì ông thản nhiên cắt nghĩa:
- Chỉ vay được hai chục đồng, trả tiền nhà cũng thiếu tám đồng, tôi mua ít đồ
đánh chén, tất cả hết hơn mười đồng...
Rồi ông gọi cu Vang một đứa đầy tớ tâm
phúc của ông, lúc ấy đã gần ba mươi tuổi sắp sửa mâm bát và đem con vịt
quay ra chặt.
- Chén đã! Tiền nhà rồi lại xoay!
Dưới ánh trăng vằng vặc của tiết cuối năm, chúng tôi
ngất nghểu trên chiếc chõng tre kê ở giữa sân với chai rượu rhum và cái
ngông của ông Tản Đà, tưởng như vũ trụ không lấy gì làm lớn.
Anh em trong Nam hồi ấy hình như đều coi cái ngông của
ống là sự đương nhiên, cho nên không ai cưỡng lại.
Có lần ông cử Tùng Lâm đã bị mắng oan vì nó.
Bấy giờ ông Tản Đà tuy coi phụ
trương văn chương của Đông Pháp thời
báo, nhưng công việc xếp đặt trang báo ấy thi ở ông Cử Tùng Lâm. Một hôm, vì thiếu
bài, ông Tùng Lâm mới phải thêm vào một
bài thơ lai cảo. Khi báo ra, ông Tản Đà hạch ông Tùng Lâm về sự chuyên quyền
ấy. Ông nay cãi rằng: Bài thiếu, báo cần lên khuôn, tôi không thể xuống tận Xóm
Gà để hỏi bài của ông! Ông Tản Đà lấy làm tức giận và mắng thêm:
- Nếu thiếu bài thì bỏ trắng đấy
cho tôi. Không xin phép tôi mà cho bài thơ kia vào đấy, thế là ông hỗn.
Ông Tùng Lâm chỉ cười.
Lại một lần, nhằm ngày mồng một Tết âm lịch, anh em
toà soạn Đông Pháp thời báo
đến thăm ông Diệp Văn Kỳ. Trong khi ông Kỳ mở các thứ rượu ra uống, ai nấy đều say loáng choáng,
cố nhiên say nhất thì ông Tản Đà. Ông Bùi
Thế Mỹ đến sau, liền bị ông Tản Đà đùa dỡn đuổi bắt. Cái gác mà chúng tôi
ngồi tuy rộng, nhưng những thống, choé và cốc đồ đạc bày ra gần chật. Trong lúc
ông Tản Đà đuổi theo ông Mỹ, ba, bốn anh người nhà ông Kỳ cứ phải chạy miết
theo chân hai ông để giữ những thứ đồ kia, vì sợ các ông ấy va vào nó. Bà Diệp Văn Kỳ ngồi trong vỗ
tay cười reo, ông Đào Trinh Nhất thì mủm mỉm cười nụ.
Nóng máu là ông Trần Quì, thấy ông Tản Đà diễn mãi
trò ấy, ông Quì cau mày và gắt:
- Làm cái gì thế? Người ta coi như cinéma kia kìa.
Ông Tản Đà vẫn không tha ông Mỹ và trả lời ông Quì
thế này:
- Ông phải biết cái thằng trong Cinéma nó không biết người ngoài là ai.
Nhất sinh tư tưỏng của ông Tản Đà có thể thu vào câu đó. Chính ông đã
tự coi ông là một người bóng trong phim cinéma, quốc dân, xã hội, mà đến cả
thế giới nữa, đều là những người ở ngoài. Như thế, đối
với ông, sự yêu ghét chê khen chỉ là sự thừa.
Vì vậy, tôi cũng không muốn nói nhiều về ông.
|
Ngô Tất Tố
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét