Khiemnguyen

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

Báo giới và văn học quốc ngữ (phần 1)



BÁO GIỚI VÀ VĂN HỌC QUỐC NGỮ (phần 1)
(Thiếu Sơn - Bài diễn thuyết đọc ở Hội Nam kỳ Khuyến học
Sài Gòn ngày 19 Juillet 1933)
Thưa các quý ông, quý bà, tôi còn nhớ cách đây trên mười năm, hồi tôi còn tòng học lại Hà Nội, không tối thứ Năm nào là tôi không tới nhà hội Trí Tri nghe diễn thuyết.
Trong những buổi đi nghe diễn thuyết đó, thất vọng cũng nhiều mà hứng thú cũng lắm. Thất vọng vì câu chuyện vô vị, mà hứng thú bởi câu chuyện có duyên.
Nhưng rốt cuộc rồi sự nghe diễn thuyết đã thành một cái mê trong tôi, cũng như trước hồi đó tôi vẫn mê cải lương và chp bóng vậy.
Đến khi vô trong này, sự mê đó vẫn cứ theo tôi hoài và cứ bắt tôi phải có mặt mỗi cuộc diễn thuyết tại nhà hội Khuyến học này.
Nhưng chẳng lẽ có vay mà không có trả? Song trả thì biết trả cách nào? Tôi tưởng chỉ có cách là cũng phải có lần đứng lên nói như người ta vậy.
Ln này tôi diễn thuyết. Mà bài diễn thuyết của tôi nó sẽ đặc biệt hơn hết thảy. Mà đố các ngài biết nó đặc biệt như thể nào?(64). Đặc biệt vì nó sẽ đứng vào hạng “bét”, để các ngái phi thất vọng, mà tội nghiệp cho din giả rằng; hu chí mà vô tài, có nợ muốn trả, mà chẳng trả được lấy một phần trong muôn phần cái vn (ấy là chưa nói đến lời làm chi).
Mặc dầu, có sao thì cũng đã lỡ rồi. Đứng lên vậy là phi nói. Nói không hay, là vì tôi không có tài hùng biện; diễn không khéo, là vì tôi không giỏi thuật văn chương; bài không được súc tích phong phú, là vì tôi không phải là bậc đa tri bác học; và ý không được lưu loát dồi dào, là vì tôi cũng không có được những kỳ tình cao tứ.
Tôi biết tôi vậy nghĩa là tôi đã có tự lượng rồi. Nhưng vì cái ý muốn trả nợ của tôi nó mạnh quá, đã thắng cả mọi sự lo ngại chánh đáng của tôi, mà ra mắt các ngài ở đây để hầu chuyện cùng các ngài về “Báo gii và văn học quốc ngữ”.
Thưa các Ngài,
Tôi không phải là nhà làm văn, mà cũng không phải là nhà làm báo, mà dám nói chuyện về báo giới và văn học, ấy lại là một điều không tự lượng nữa.
Nhưng, nói đây không phải nói về cái nghề làm báo, hay bàn về cách viết văn, mà tôi chỉ lấy tư cách của một kẻ ham đọc sách và ưa coi sách, muốn đem những sự mình đã tìm thấy, hoặc nghĩ ra, ở những cuốn sách mình đã coi, hoặc ở những tờ báo mình đã đọc trong mười mấy năm nay, thuật lại với thính giả mà thôi vậy.
Tôi vô phúc sinh sau, không được coi tới những tờ báo xuất hiện hồi đầu ở nước Việt Nam ta. Nhưng theo lời của bậc đàn anh kể lại, thì tờ báo thứ nhất ở nước ta, có lẽ là tờ Gia Định công báo chủ trương và biên tập do tiên hiền Trương Vĩnh Ký (65). Báo xuất bản năm 1867, cách đây đã được 66 năm rồi. Kế đó có những tờ Đại nam Đng văn nhật báo, Đăng cổ tùng văn, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đông dương tạp chi.. lần lượt ra đời, hoặc ở Sài Gòn, hoặc Hà Nội.
Ba tờ trên tôi không kiếm ra được số nào còn lại mà coi. Tờ Lục tnh đã có trên 20 năm nay mà hiện vn còn sống.
T Đông dương tạp chí xuất thế năm 1914 và chỉ sống tới năm 1918 thì bị đổi ra làm Trung Bắc tân văn và Học báo.
Tuy sống có bn năm, mà tờ Đông dương tạp chí ta phải kể là có công lớn trong cuộc xây dựng quốc văn. Đọc Đông dương tạp chí, ta đều nhận thấy tên những nhà nếu còn sống thì là dân anh trong làng báo, kiện tướng trên văn đàn. Mà nếu đã quá cố đi rồi, thì cũng còn để cái phương danh hoặc lưu lại chút sự nghiệp.
Những ông Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính tuy người đã khuất mà tiếng hãy còn nhất là bộ Hán Việt văn khảo, rút những bài của ông Phan đã đăng trong Đông dương tạp chí, đến nay vẫn như còn cái ảnh hưởng thâm thiết giữa văn giới và báo gii ta bây giờ (66).
Còn những ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu, Dương Bá Trạchồi trước hoặc bỏ ngọn bút lông mà cầm cây bút sắt, hoặc nghỉ viết ở Pháp văn và viết văn quốc ngữ, đều đã dùng tờ Đông dương tạp chí làm cơ quan giảng cứu văn học, truyền bá tư tưởng, đem những cái sở đắc Hán học, Tây học mà khai trí tiến đức cho độc gi quốc dân.
Mục Dịch Hán văn của những ông Phan Kế Bính, Dương Bá Trạc, chính đã giúp cho ta được biết đôi chút cái thú vị của Hán văn. Mục Dịch Pháp văn của các ông Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh chính đã cho ta hay được đôi chút cái tinh thần của Pháp học. Còn những bài lược luận ngăn ngắn của thi sĩ Tản Đà, nó nhẹ nhàng bóng bẩy, thú vị biết bao! Lại những tiểu thuyết dịch Pháp văn của ông Nguyễn Văn Vĩnh thiệt là ly kỳ hoạt động, đọc tới bắt mê, mà càng coi thì càng thích.
Đông dương tạp chí xuất thế được ba năm, thì Nam Phong ra đi, nhằm năm 1917.
Ngoài bìa thấy có in một câu cách ngôn của Roosevelt: “II n’y a que ceux qui sont des égaux qui sont égaux”, “Có đồng đẳng mới có bình đẳng được”. Phía trái bìa thấy để cái mục đích của Nam Phong như sau nầy:
Mục đích của báo Nam Phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của nhà nước, biên tập các bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân Annam, truyền bá các khoa học của thái tây, nhất là hc thuật tư tưởng Đại pháp, bảo tồn cái quốc tuý của Việt Nam ta, cùng là binh vực quyền lợi, người Pháp, người Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại có chủ ý riêng về sự luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn Annam”.
Khoan nói tới cái sự nghiệp của báo Nam Phong, để coi đã cố theo đuổi cái mục đích đó được một cách hẳn hoi không (67). Ta hãy chịu khó nhận lấy chỗ dng ý của kẻ đã đề câu cách ngôn của Roosevelt ra ngoài bìa tờ báo: “Có đng đng mới bình đẳng được” nghĩa là làm sao ?
Trưc hết phải hỏi: Bình đẳng đây là bình đẳng với aí? Xin mau tr lời là bình đẳng với người Pháp vậy.
Nhưng bình đẳng sao đặng?
Một đằng là thầy, một đằng là trò. Một đằng thì văn minh, phú cường, một đằng thì bán khai yếu đuối, mà làm sao bình đẳng với nhau được.
Vậy trước khi muốn bình đẳng với người, phải sao cho đng đng đã. Mà đồng đẳng đây dịch chữ égaux nghĩa lá ngang vi người về đủ mọi phương diện: trí dục, đức dục và thể dục.
Báo Nam Phong lấy câu đó làm phương châm chính là muốn tự nhận làm cơ quan giáo dục cho quốc dân vậy.
Song giáo dục là kiêm cả trí, đức, thể mà người chủ trương và các bạn đồng chí của Nam Phong đều chỉ là những văn gia nhược sĩ nên phần thể dục đành phải chờ tới 15 năm về sau, nghĩa là gần đây, mớị có cái cơ quan thề thao ra đời gánh vác.
Riêng Nam Phong chỉ chuyên “giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân” mà thôi.
Gần hai chục năm nay không biết tạp chí Nam Phong có giúp được chút gì cho sự giữ gìn đạo đức trong dân gian không thì tôi không biết. Chứ thực tình nó đã giúp được sự mở mang trí thức trong quốc dân nhiều lắm.
Trước đây, phê bình ông Phạm Quỳnh ở Phụ Nữ tân văn, tôi đã có dịp nói tới cái sự nghiệp của tạp chí Nam Phong. “Có nhiều người không biết đọc, văn Tây, văn Tầu, chỉ nhờ Nam Phong hun đúc mà cũng có được cái trí thức phổ thông, tạm đủ sinh hoạt đời (68). Có nhiều ông đồ Nho chỉ coi Nam Phong mà cũng biết được đại khái những văn chương học thuật của Tây phương. Có lắm ông đồ Tây chỉ coi Nam Phong mà cũng hiểu qua được đôi chút cái tinh thần văn hóa của Đông Á”.
Song như vậy có phải là đã đủ khiến cho Annam có được cái trình độ tinh thần ngang với người Pháp, đủ đồng đẳng được với người mà cùng nhau bình đẳng chăng?
Thưa không. Chẳng cứ một tờ Nam Phong. Cho ngay mười tờ Nam Phong cứng không dễ dàng gì gây nên được cái sự nghiệp ln lao như vậy.
Cái giáo dục của Nam Phong ch là cái giáo dục phổ thông, cái giáo dục giản yếu mà thôi.
Dầu coi nó mà biết được văn học sử nước Pháp, hay luân lý học nước Tầu, hoặc đọc nó mà biết chủ nghĩa của Voltaire, học thuyết của Rousseau, hay xem nó mà biết được cái triết lý uyên nguyên của nhà Phật, cái đạo học quân tử của Nho gia, song những cái trí thức đó vẫn còn là giản yếu sơ lược lắm. Ta còn phải hưởng một cái giáo dục nào trên cái giáo dục đó, vừa sâu hơn, vừa rộng hơn, mới khả dĩ hy vọng tói những sự đồng đẳng, với bình đẳng được.
Bởi vậy mà trong quốc dân người nào có chí cầu học đều phải hoặc biết chữ Tây, hóặc biết chữ Tầu, sở đắc ở Tây học hay Hán học mà mới thành được những phần tử trí thức của xã hội.
Tuy nhiên, những phần tử trí thức này, khi ra hành động, rút cuộc vẫn chịu ảnh hưởng của Nam Phong. Nhưng cái ảnh hưởng này khỗng phải là ảnh hưởng ở tinh thần mà là ảnh hưởng văn thể (69).
Nam Phong còn có “mục đích tập luyện văn quốc ngữ, cho thành nên một nền quốc văn”. Cái mục đích đó, nếu không đạt được hẳn thì Nam Phong tưởng cũng đã gần theo được tới nơi.
Nhng nhà hồi trước đã tập luyện quốc văn Đông dương tạp chí, khi qua viết Nam Phong đã thành nên thầy dạy quốc văn. Mà những ông thầy dậy quốc văn này cũng đã đào luyện được nhiều ngọn bút tài tình, trong những bạn trí thức của tân học, cựu học, mà đem vô cho văn giới, báo giới biết bao nhiêu kiện tướng tinh binh.
Trong lúc trên tạp chí Nam Phong, ông Phạm Quỳnh và các bạn đồng chí của ông làm việc cho quốc văn thì ông Nguyễn Văn Vĩnh vẫn chủ trương tờ Trung Bắc tân văn và chuyên dịch tiểu thuyết trứ danh của Đại Pháp.
Ông Quỳnh nói: “Tiếng ta còn thì nước ta còn”. Mà ông Vĩnh cũng nói: “Nước ta sau này hay dở là nhờ chữ quốc ngữ”.
Nhưng văn ông Qụỳnh thì khúc mắc thâm trầm, mà văn ông Vĩnh thì phổ thông giản dị. Hai lối văn khác nhau là vì hai tính cách khác nhau, nhưng cũng bi hai ông, mỗi ông đều có chuyện khác nhau đem ra nói vi quốc dân độc giả.
Ông Quỳnh ưa nói triết lý, ông Vĩnh thích kể chuyện đi. Ông Quỳnh hay giảng cứu về học thuật tư tưởng mà ông Vĩnh chỉ diễn dịch những tiểu thuyết, ngụ ngôn.
Bởi câu chuyện của ông Quỳnh cao k nên văn của ông cũng cao kỳ. Bởi câu chuyện của ông Vĩnh suôn sẻ nên văn của ông cũng suôn sẻ. Nhưng suôn sẻ không phải là tầm thường, thô kệch, huống cái suôn sẻ của ông nó thần tình hoạt bát biết bao nhiêu (70).
Nhân vậy nên tuy cùng theo đuổi một mục đích mà mỗi ông đều có một cái ảnh hưởng khác nhau. Văn ông Phạm Qunh đã nh hưng tới những lối văn nghị luận, xã thuyết, triết lý và khảo cứu. Mà văn ông Vĩnh đã ảnh hưởng ti nhng li văn tự thuật, tiểu thuyết, trào phúng và ngụ ngôn.
Vi hai cái nh hưng đó văn giới Việt Nam lại chịu thêm một cái ảnh hưng của thi sĩ Tản Đà.
Nửa đời chính độ tớ đương chơi,
Chơi mun sao cho thật sướng đời,
Ngưi đời ai muốn chơi như tớ,
Chơi c bằng văn mãi chửa thôi.
Chơi văn sướng đến tớ là thôi,
Một mnh trăng non chiếu cõi đời,
Văn vận nước nhà đương buổi mới,
Như trăng mới mọc tớ còn chơi.
(Còn Chơi)
Thú vị thay! Chơi mà cũng gây nên ảnh hưởng như ông Nguyn Khc Hiếu thực cũng đủ sướng một đời.
Ông chơi, chơi với người trong mộng, chơi vi bạn cung trăng, chơi với non nước cao biếc, chơi với Thượng đế Ngọc hoàng, chơi bằng con mắt mỹ thuật, chơi bằng mối tình thi nhân, chơi bằng tưởng tượng mơ màng, chơi bằng thần giao cách cảm.
Nhưng h chơi tới đâu thì có thơ tới đó, mà hễ thơ ra ti đâu thì đưc người đời say mê, thưởng thức tới đó.
Cái nh hương của ông là đối với các bạn làm thơ, mà trong văn học là đối với lối văn tả cảnh đạo tình vậy.
Văn hc quc ng chính là phôi thai nhờ ba cái ảnh hưởng đó mà ln ln khởi sắc mới trong vòng hai chục năm nay (71).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét