BUỔI CHỢ TRUNG
DU
|
Ngô Tất Tố
(Văn nghệ, số Mùa Xuân, 1949)
|
Mặt trời tiết cuối thu nhọc nhằn
chọc thủng màn suơng, từ lừ nhô lên ngàn cày trên dày đồi núi lẹt
xẹt. Bầu trời dần dần tươi sáng. Tất cả thung lũng đều hiện màu vàng. Trước cơn gió hiu hiu, sóng
vàng cuồn cuộn nổi trong đồng ruộng. Hương vị thôn quê, đầy vẻ quyến rũ, ngào ngạt
trong mùa lúa chín.
Từ các làng xóm, từ các ấp trại, từ các túp nhà
linh tinh trên sườn đồi, người và người, và gồng gánh thúng mủng, và bị quai,
tay nải, và ba lô nữa, lũ dài lũ ngắn, lần lượt dồn lên mấy con đường lớn. Vai
kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chích
chích, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói chuyện léo xéo.
Thỉnh thoảng lại điểm những
tiếng ăng ăng của con chó bị lôi sau sợi xích sắt, bộ mặt buồn rầu sợ sệt, y như những tên Việt gian bị giải đi đường.
Suơng tan, nắng rõ. Bóng người lần lần theo các thứ
tiếng, tiến đến khu rừng trên một trái đồi.
Trong lúc tích cực đề phòng cuộc tấn công thu đông
của giặc, bao nhiêu phố xá đều triệt để tản cư, người ta cũng cần có chỗ tụ họp chốc
lát, để trao đổi mua bán.
Không có mệnh lệnh, cũng chẳng ai hẹn ước với ai,
nhưng khác hẳn nhiều cuộc khai hội, ai cũng đi rất
đúng giờ. Khoảng bảy giờ sáng, trên đồi đã đông nghìn nghịt. Chợ họp sớm, để tránh sự khủng bố dã man của
những pít-phay hung bạo.
Màu nâu, màu chàm, màu đen,
màu vàng ka ki, các thứ quần áo trà trộn dưới bóng cây. Chỉ thiếu quần trắng
phớt phơ và áo tím, áo xanh sặc sỡ.
Không ai nói to, cũng không ai nói nhiều. Những luồng phái âm của
hàng nghìn cái miệng đủ làm cả khu rừng ầm ầm.
Nứa và nứa, củi và củi. Kẻ bán vô số bó củi, hoặc
đứng hoặc năm, vô số bó nứa dạng thẳng hai chân, ưỡn ẹo tựa dưới gốc cây, hoặc sàm
sạp ngả trên mặt đất. Địa hạt của nứa và củi chiếm cả một giải cổng chợ. Thành phố đã san thành bình
địa, thôn quê cũng như đồi núi, nhà cửa tiếp tục mọc lên. “Sự nghiệp đi bộ” càng phát triển, hàng quà, hàng
bánh càng khuyếch trương, nứa củi đương là những thứ cần dùng của thời đại.
Bởi vì nó là vật liệu trọng yếu trong sự ăn và sự ở.
“Hôm nay ít củi, ít nứa”, nguời ta nói thế. Là vì mùa gặt đã bắt đầu, dân
củi, dân nứa phần nhiều biến thành thợ gặt, gặt lúa còn đắt công hơn đi lấy củi lấy nứa.
Bên cung ít hơn bên cầu, “hàng hoá” tự nhiên lên giá. Các ông bán củi, bán nứa tha hồ làm cao,
tha hồ nắn bóp và tha hồ chủng chẳng với khách mua.
Dù sao, có nứa có củi mà mua, còn là vinh hạnh. Hà
Nội hiện thời, kiếm không thể ra một cây nứa, giá củi đắt như vỏ quế, và cũng không
có mà mua. Giặc Pháp luôn luôn huy động từng đội cơ giới kéo đến các làng gần
chúng, dỡ đình, dỡ chùa, dỡ nhà người ta, chở về để đun và đốt lò máy. Đoạn
tuyệt nứa củi, cũng đủ cho chúng điêu đứng.
*
Lồng vuông, lồng tròn, lồng cao, lồng thấp,
lồng trái hồng, lồng trái vả, từng quây vành cót lớn bằng cái nong. Khu hàng gà vịt
đủ các kiểu lồng, nhiều thứ trung châu không có.
Chúng nó kề lưng nhau, giáp
vách nhau, gối lên nhau, chồng lên nhau, sắp thành hai dẫy thườn thượt. Vậy mà
vẫn còn là ngắn. Trước kia vào khoảng tháng ba, tháng tư, cũng ở chỗ
này, trên là trời, dưới thì gà vịt Trong đó vịt chiếm đến chín
phần mười. Vịt bóc trứng, vịt thục thóc, vịt đẻ, vịt chéo cánh... không thiếu một
hạng nào. Nếu cứ đếm đầu mà tính số vịt phải nhiều gấp hai gấp ba số người trong chợ. Vịt tuy nhiều, bán vẫn chạy và giá vẫn cao, bảy đồng
một con vịt bóc
trứng, vịt đẻ một
đôi sáu chục đồng? Trứng
vịt đến một đồng tám quả. Hồi ấy nuôi vịt phát tài như đi buôn lậu,
cho nên vùng này đã nổi phong
trào chăn vịt. Bất kỳ ông ở đâu, quanh nhà ông phải có vịt. Bất kỳ ông đi
đâu, ra đường là
gặp vịt. Trong ao, trong
sông, trong ruộng, trong
ấp trại, không có chỗ nào không có
vịt. Một người nông
dân đã gọi là cuộc “loạn
vịt”, và rất lo cho sự sống của người. Anh
ta cũng có nuôi vịt.
Theo con số của
anh ấy đã tính, thì số thóc một ngày nuôi trăm con vịt đẻ trứng, nếu làm ra gạo, có thể đủ mươi người ăn. Các hạng vịt khác, tuy không ăn tốn đến thế, nhưng mỗi ngày, một vùng nuôi hàng triệu vịt cũng phải hao hụt bao
nhiêu tấn thóc. Lương thực bị vịt chia sẻ như vậy, chỉ trong mấy tháng, người ta sẽ phải đói lây.
Anh ta nói vậy. Mới nghe tưởng như có lý nhất là người nông phu, họ biết lo xa như vậy, nhiều người
dễ tin là đúng. Nhưng thời
gian đã chứng thực: Sự lo xa của anh ta chỉ là cái lo “trời đố”. Hiện nay “loạn
vịt” đã chấm dứt, mấy tháng vừa qua giá gạo vẫn trung bình, người vẫn không ai bị đói.
Những nhà nuôi vịt đều nhăn như bị, có người lỗ vốn mấy vạn đồng. Phiên này,
vịt chợ vẫn rẻ, mấy hàng vịt con, chỉ ngồi rau ráu nhìn nhau, chẳng ma nào hỏi đến.
*
Đỉnh đồi, trung tâm của chợ là khu hàng vải, hàng xén. Đấy là hai dẫy lều mới, theo hình thước thợ quắp lấy ngọn đồi.
Các bà, các cô hàng vải,
hầu hết là người đường xuôi, nhưng không phải người Hà Nội, vì lúc bán hàng, đều không có giọng đặc biệt của các bà, các cô Hà Nội. Trừ những thứ xanh đỏ loè loẹt, các thứ cần thiết cho dân quê,
đều không thiếu mấy: chéo go, láng thâm, dường bâu, sồi thâm, sồi mộc, vải nâu,
vải trắng, vải màu chàm… gì cũng có. Tuy là mùa rét sắp
đến, khách mua cũng không lấy
gi làm đông. Thế
nhưng, giá hàng vẫn cao vòn
vọt. Nhất là giá bông. Một cái cốt bông áo cộc, cân lên chưa đày lạng rưỡi, người ta phải chuốc đến sáu chục đồng. Điều đó, như muốn tố cáo nạn khan bông của địa phương này. Thật vậy, ở vùng ấy, có khi đi hai ngày đuờng không gặp một cây bông nào. Các nhà canh nông miền này hình như thâm thù loài bông, không muốn cho nó nẩy nở.
Quang cảnh hàng xén, không được sầm uất như hàng vải.
Giang sơn của gian hàng chỉ bằng chiếc chiếu. Đó là chưa kể những hàng bày mẹt, ngồi ở van đường. Tuy thế cần mua thức gì cũng vẫn có đủ thức ấy,
nếu ông không mua những xa xỉ phẩm. Hỏi các
tạp hoá thứ nào cũng vẫn vững giá bình thường, riêng có giấy bút thì đắt thái thậm:
bút chì hạng bét, mỗi cái sáu đồng, giấy tây hạng vừa phải ba mươi ba đồng một tập. Một bà nhà quê vừa cởi ruột tượng vừa
than: “Bán một gánh thóc, mua được cái bút và mấy tờ giấy còn thừa vài đồng, vừa đủ mua quà cho con. Thế là sào lúa đi đời”. Kế thì cũng
đáng ái ngại, song cũng đáng mừng. Đổi thóc gạo lấy “i tờ”, nhà nông hồi trước đâu có thế.
*
Gạo cũng như thóc, dồn cả
lại khu cuối chợ. Đó là sản phẩm “chính quy” của hạt này. Thị trường không rộng lăm. Người bán cũng
thưa, nhưng giá thóc gạo
xuống như đổ tường. Từ
phiên trước đến
phiên này, mỗi gánh sụt hẳn mười lăm đồng bạc. Là vì lúa sớm đã gặt, trừ một số ít người tản cư, ít nhà đong
gạo ăn, cho nên, người bán
tuy ít, vẫn là nhiều hơn người
mua. Những bà hàng
thóc hàng gạo đều ngồi rời rợi trông đôi
quang thúng, thấy ai đi qua cũng mời. Bà nào may mắn, bán được chạy tay, lúc
đếm tiền, nét mặt tần ngần như người mất cắp: “Thóc gạo hạ, công gặt vẫn bảy, tám đồng một ngày,
nhà nông thật khóc giờ, mếu giở”.
Mía không phải mía, củi
không phải củi.
Nguời ta bán những
cái gì mông mốc,
đo đỏ, vàng vàng chặt đoạn ngắn như tấm mía, bó lại từng bó lớn bằng cái chĩnh, bó nằm, bó đứng, ngổn ngang chất cả gian hàng.
“Thưa ông, em bán vỏ ăn trầu”. Bà hàng vừa nói vừa mỉm cười: “Đây là vỏ cáo, đây là vỏ
triếu, đây là vỏ quai hòm, kia là vỏ mấu, vỏ xen, vỏ khoai, vỏ chay, vỏ quạch...”. Sau khi giới thiệu khắp luợt, bà hàng tiếp: “em cũng còn thiếu vài
thứ vỏ nữa. Nếu muốn buôn đủ mặt hàng cũng phải to vốn lắm. Mỗi bó vỏ
này, vốn mua đều phải từ bốn chục trở ra...”.
Khu vực hàng vỏ khá rộng. Lều nào lều ấy, hàng hoá đều
xếp la liệt, y như những xưởng củi nhỏ. Tiếp đó, khu hàng lá trầu và hàng cau tươi cũng kéo hi dãy thẳng đẵng, hàng nào cùng đầy ngồn ngộn. Thế mà phiên nào cũng vậy tan chợ là hết veo. Thì ra những bộ răng đen của các bà, các cô vùng này mỗi phiên chợ phải nhai đến mấy tấn trầu vỏ. Cán bộ phụ vận cũng như
cán bộ đời sống mới, còn là khổ với anh em chú
Tân Lang.
Keng! keng! Keng!
Keng! Kẻng! Keng!
Tà vẹt đường sắt giật
giọng đánh ba tiếng một. Cả chợ cuống quýt lộn xộn, chen
nhau, đẩy nhau, xáo lên chân nhau, ngã sẫp ngã ngửa. Có người bỏ cả quang gánh. Có người đổ hết
tương mắm. Chạy ra hầm, chạy ra chân đồi, chạy đến bờ ruộng. Núp vào gốc lúa, núp vào chân gò, nằm la nằm liệt, nằm ngang, nằm dọc. Nhiều người run cầm cập.
Như đám lá khô
trước con bão lớn, chợ sạch ngoét không còn người nào. Thúng mủng, nồi niêu, bỏ lổng chổng khắp nơi.
Tiếng động cơ mỗi lúc mỗi lớn. Hai chiếc đa-cô-ta từ từ
hay đến trên chợ, rồi từ từ bay qua chợ.
“Máy bay tiếp tế”.
Một hồi tà vẹt báo yên chưa dứt, người ở các ngả tới tấp chạy về, tất cả đi tìm đồ đạc của mình lúc nãy bỏ lại trong chợ. Những
bà hàng vải hàng xén lóp ngóp từ dướì hầm trong lều nhô lên giống như một lũ quỷ sứ đương ở trong động chui ra.
Chợ cũng vãn, ai mua đã mua rồi, ai bán đã bán rồi. Người ta tản mác ra về. Các bà cụ già vừa đi vừa nguyền rủa “Cha con mẹ nó, làm cho người ta hú vía”.
“Cha con mẹ nó, chợ búa người ta mua bán với nhau, việc gì nó cũng bắn cũng ném bom”.
Tiếng chửi theo các toán người ra khỏi chợ, rồi chia đi các ngả trong thung lũng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét