NHỮNG XIỂNG XÍCH CỦA VĂN CHƯƠNG NGÀY
XƯA
|
Ngô Tất Tố
(Tao Đàn, 1939)
|
Tuy nó
đã là tai hại loài người rất nhiều, tôi vẫn khen cái thói chuyên chế của phương Đông thật là giỏi
nhất gầm trời.
Những ông Louis XIV hay
Alexandre le Grand dù đã nổi tiếng là bực tàn khắc ở Âu châu, song chưa thấm
vào đâu với các vua của Tàu và của ta đời xưa.
Thật thế.
Cái chuyên chế của nguời phương
Tây chẳng qua chỉ có chém giết, giam cầm, hay cấm tự
do ngôn luận... những sự đó tuy có tàn bạo, mà nó chỉ là việc của một
người trong một thời, chưa hẳn thành một chế độ. Đến như cái chuyên chế của người phương Đông, thì ngoài mấy món đó lại còn nhiều “đồ phụ tùng” tổ chức rất mầu nhiệm, tinh vi, lưu truyền hết đời nọ sang đời kia, khiến cho kẻ bị áp chế mất hẳn đầu óc tự do, không biết
là chuyên chế nữa.
Trong các đồ phụ tùng ấy, khôn khéo
nhất và đáng sợ nhất là những xiềng xích về văn chương.
Những bạn tân học chắc sẽ cho là
chuyện quái gở và sẽ thương hại cho con
nhà văn ngày xưa, khi mà các
bạn coi hết bài này. Chính tôi là kẻ đã
sống trong vòng xiềng
xích ấy từ thuở lên sáu đến khi tuổi ngoài hai mươi, nghĩa là đời tôi đã quen
với nó lắm rồi. Thế mà sau khoảng hơn hai chục năm khỏi sự trói buộc của nó,
ngày nay, mỗi lúc nghĩ lại tôi vẫn giật mình đánh thót và lấy làm lạ rằng: sao trong lúc ấy, mình không bị tà bị tội?
Quả thật, đối với con nhà cử nghiệp
ngày xưa, những xiềng xích của văn chương có thể cho là “lưới trời lồng lộng”, đụng đâu là mắc tội đấy, nếu họ vô ý một
chút.
Tôi muốn bạn đọc được thấy chân tướng
của nó một cách rõ ràng, nhưng không biết nên thuật từ đâu trước nhất. Vậy bắt đầu từ
cái nạn “trường qui”.
Theo đúng qui luật nhà trường,
thì trong quyển văn phải viết toàn bằng lốì chữ chân phương, ngang bằng, sổ
ngay, không được đá thảo, cũng không chữ nào được thừa một nét hay thiếu một
nét. Quanh dấu “giáp phùng”[1] cũng như quanh dấu “nhật
trung”[2] và các “hàng đầu”, “hàng vĩ”[3], không được xoá,
sót, móc, chữa. Nội trong quyển thi, tất cả xoá, sót, móc, chữa không được quá số mưòi chữ. Ai không giữ
đúng lệ đó, tức là phạm vào trường qui, dù cho chữ tốt văn hay cũng bị đánh
hỏng. Những người thiếu nết cẩn thận, giữ được khỏi phạm trường qui là sự rất
khó. Vì vậy, ông Tú Xương sau khi được vào kỳ thứ ba, đã phải mừng rỡ mà rằng:
“Phúc
nhà may được sạch trường qui”
Được sạch trường qui, mà một tay
danh sỹ phải cho là phúc của nhà mình, đủ biết sự ấy khó khăn thế nào.
Tuy vậy, nạn ấy cũng chứa khổ
bằng cái nạn kiêng những chữ tên nhà vua.
Lệ này do Tần Thủy Hoàng
đặt ra. Ông ta tên cái là Chính,
khi lên ngôi vua, liền bắt thần dân trong nước phải kiêng chữ chính và đọc tránh là chữ chinh. Từ đó về sau, các vua của Tầu
và Ta, ai cũng bắt chước. Chẳng những người ta bắt người trong nước
không được đọc đến cái chữ tên mình, mà còn cấm hẳn chữ ấy, không cho kẻ nào
dùng đến. Từ ngày tên người, tên đất cho đến tên loài cây cỏ, chim muông, hay
các đồ dùng, cái nào nhằm với chữ tên nhà vua đều phải đổi đi hết
thảy.
Củ sơn dược
trong thuốc Bắc ta thường gọi củ hoài sơn, lúc xưa tên là thự dự. Vì trùng tên Đức tôn nhà Đường, nó phải đổi làm sơn dự; rồi vì kiêng tên Chân tôn nhà Tống, nó lại phải đổi
ra làm sơn dược. Làng Lương Ngọc ở tỉnh Hải Dương, đời Lê về trước vẫn gọi là làng Huê đường.
Đến đầu đời Nguyễn, một lần vì chữ huê
phạm huý, làng ấy phải đổi ra Lương Đường, một lần nữa vì chữ dường lại phạm huý nốt, làng ấy lại
phải đổi ra Lương Ngọc. Cái lệ kiêng tên nhà vua nghiêm khắc đến vậy.
Riêng với những người cắp
quyển đi thi, lệ ấy lại càng ngặt hơn, vì những kẻ này là kẻ đụng chạm với nó
nhiều hơn.
Người ta chia nó ra làm hai thứ: trọng huý và khinh huý. Khinh huý là tên
mẹ vua cha vua hay là bà cô, ông chú của vua. Trọng huý thì là tên vua.
Viết văn cũng như viết các thứ
khác, được dùng những chữ khinh huý, nhưng phải viết thiếu một nét. Còn chữ
trọng huý thì nhất thiết cấm đặc. Cần dùng phải kiếm chữ khác thay vào.
Trong triều Nguyễn, trọng huý là chủng, ánh, thì, nhậm, thật, đỏm v.v...
khinh huý thì là hoa, đương, miên,
hồng, ưng v.v... tất cả độ năm chục chữ trở lại.
Lúc sắp vào trường, quan trường
đã có bảng yết các chữ huý ấy cho học trò biết. Những chữ khinh huý cố nhiên có
thể viết theo nguyên hình mà bỏ một nét. Nhưng còn những chữ trọng huý đã bị cấm
đặc, không được đọc, cũng không được viết, các ngài thử nghĩ trong bảng sẽ đề
thế nào?
Người ta viết tách một chữ ra làm
mấy mảnh. Thí dụ: chữ chủng thì viết: “Một chữ bên tả là “hoà”, bên hữu là “trọng” hay như chữ “thì” thì viết: “Một chữ bên tả là “nhật”, hai hữu là “tự”. Cách viết ấy nên đem
đổi sang chữ quốc ngữ, thì nó giống như thế này: “Một chữ, vần xuôi là ch, vần ngược là ung, dấu hỏi”; “một chữ, mẫu vận là th, tử vận là dấu huyền”. Học trò
coi bảng, phải đam những mảnh chữ ấy chắp lại trong óc mình cho biết nó là chữ gì mà kiêng.
Người nào phạm vào khinh huý,
nghĩa và viết chữ khinh huý mà không bỏ lại một nét, thì bị đóng gông phơi nắng
ba ngày và suốt đời không được đi thi. Còn người nào phạm vào trọng huý, thì
chẳng những mình họ phải tù phải tội, mà đến những ông huấn đạo, giáo thụ và đốc học là kẻ có trách nhiệm trong việc giáo dục của họ, cũng bị
phạt bổng, giáng cấp, không được yên lành.
Tuy rằng triều Nguyễn trị vì chưa
được mấy ngày, cái số chữ huý chỉ có mấy chục đó, nhưng giả sử không biết từ
trước, đến lúc vào trường mới kiêng, thì đố ai kiêng cho được. Vì vậy, những
lúc đi học, cha dạy con, thày dạy trò, đều phải chú trọng điều đó, làm cho học trò
quen đi. Thế mà đến khi đi thi, thỉnh thoảng cũng vẫn có người phạm huý.
Vậy mà nạn này lại còn giản dị.
Cái nạn “khiếm đài”, “khiếm trang” mới phịền phức hơn nhiều.
Thế nào là “khiếm đài”?
“Đài” là sang giòng và viết cao
lên. Khiếm đài tức là đáng lẽ phải viết cao lên mà lại viết như lối thường.
Theo lệ, trong quyển thi, đầu nó
phải để một từng bỏ trắng vừa đúng ba hàng. Trên cùng gọi là hàng du cách, tức
là ngoại hạng, để viết những chữ “thiên”, “địa”, “giao”, “miếu”; dưới đó là
hàng thứ nhất, để viết những chữ “hoàng thượng”, “thánh thượng”, lại dưới nữa
là hàng thứ hai, để viết những chữ thuộc về đức tính hay công việc của nhà vua.
Khi làm văn “kim”, tức là thứ văn nói về hiện đại, chuyên để tán tụng nhà vua,
thì theo lệ đó mà viết. Ví như gặp câu “đức hoàng thượng ta nay đem
tư chất cường kiện của quẻ
Kiền, coi vận hội hanh thông của quẻ Thái”, thì chữ “hoàng thượng” phải viết
lên hàng thứ nhất, chữ “đem” phải viết lên hàng thứ hai, vì nó là chữ thuộc về
công việc của nhà vua, chữ “tư chất cường kiện” cũng phải viết lên hàng thứ
hai, vì nó là chữ thuộc về đức tính nhà vua.
Trái thế, ấy là khiếm đài, nhẹ
thì bị hỏng, nặng thì còn phải tội nữa.
Thế nào là “khiếm trang”?
“Trang” là kính trọng. Khiếm trang
nghĩa là thiếu sự kính trong đối với nhà vua.
Khoản này không có lệ định rõ ràng,
vì nó mông mênh không bờ, giấy mực không thể nói hết.
Nhưng mà trong khi tập văn, thày
học đã phải dặn dò học trò từng li.
Hết
thảy những chữ xấu nghĩa, không được đặt liền với những chữ chỉ về ông vua như
là “hoàng”, “đế”, “quân”, “vương” chẳng hạn. Dù mà mấy chữ sau đó
không nói về ông vua nào, cũng cứ phải kiêng như thế. Văn “kim” vậy, văn “cổ” cũng vậy.
Thí dụ câu “cách quân tâm chi phi”,
nghĩa chính là “chữa lại điều trái trong lòng vuà”, không cố ý gì xấu cả. Thế nhung, chữ “cách” lại có nghĩa nữa là đấm, đạt nó liền với chữ “quân”, người ta có thể cắt nghĩa ra là “đấm vua”. Hay như hai câu “thẩn
vũ bất sát, đế đức quảng phu”, nghĩa thật chỉ là “oai mạnh thiêng liêng không cần giết ai, đức của nhà vua vẫn
cứ lan rộng”, chữ “sát” ở cuối câu trên không dính gì đến chữ “đế” ở đầu câu dưới. Nhưng hai chữ ấy
đặt liền với nhau, người ta có thể cắt nghĩa ra là “giết vua”. Những trường hợp đều gọi
là “trệ”, cũng như “khiếm trang”.
Ấy là kể qua cho biết đó thôi.
Chi tiết của lệ này còn có nhiều điều kỳ quặc, muốn nói cho đủ, ít ra phải
viết bằng một cuốn sách.
Các ngài đừng tưởng “khiếm trang”
chỉ là tội thường, nó còn nguy hiểm hơn “phạm huý” nữa.
Viên Mai (danh sỹ đời Thanh),
khi vào thi hội, gặp bài “phú, đắc nhân phong tưởng ngọc kha”, ông ta muốn mô tả
chữ “tưởng”, mới làm hai câu thích thực như vầy:
“Thanh nghi lai cấm uyển,
Nhân tự cách thiên hà”
Dịch ra tiếng ta thì là:
“Tiếng, ngỡ từ vườn cấm
Người, như cách bến Ngân”
Như vậy thì có gì là phạm tệ? Chỉ vì chữ “nhân”
ở câu trên chỉ về nhà vua. Gọi vua là người, ấy là một cái tội lớn. Vì vậy, quan trường
cho là “bất trang” nhất định đánh hỏng. Nhờ có viên Đại tư mã họ Cam hết sức
bênh vực, mới được thoát nạn. Khoa ấy ông ta được đỗ Tiến sỹ, có làm bài thơ cám
ơn viên Đại tư mã họ Cam. Bài thơ ấy và cả đầu đuôi truyện này, ông ta có chép vào tập “Tiểu sương sơn thi phồng”.
Ông Đặng Dùy Trứ (người đời Tự Đức, ta vẫn gọi
là quan Bình chuẩn, vì ông ấy đã có làm chức Bình chuẩn), khi đi thi hội đã đậu thứ Bẩy. Lúc vào thi đình, ông ta suýt chết chỉ vì bốn chữ “gia miêu chi hại” lỡ viết vào
trong quyển thi.
Theo đúng nghĩa đen của nó, thì “gia
miêu chi hại” chỉ có nghĩa là cái hại “của giống lúa tốt”. Bản ý ông Trứ trong
mấy chữ ấy cũng chỉ định nói có thế, không động gì đến nhà vua. Chết vì hai chữ
“gia miêu” lại trùng với tên quê nhà Nguyễn, người ta có thể cắt nghĩa ra là “cái
hại của làng Gia miêu”. Vì vậy, ông Hà
Tôn Quyền, chủ khảo khoa ấy, nhất định hạch
về chỗ đó. Đáng lẽ ông Trứ phải kết án chém, may vì cha ông có công với nhà
vua, cho nên chi bị đánh hỏng và bị cách tuột cử nhân là cái khoa bảng ông ấy đã đậu từ trước.
Trong bài thơ “điện thí đắc truật” gửi cho ông Nguyễn Đăng Giai in ở tập “Đặng Hoàng Trung thi sao”, ông Trứ
có thuật chuyện này. Sau đó, ông ấy lại được ân xá, cho đi thi hương và rồi lại
đậu thủ khoa.
Hai ông này tuy bị hú vía, nhưng
còn được đậu. Đến như cái ca ông Khuất Duy Nhận mới đau đớn chớ.
Ông này cũng người về đời Tự Đức đã đậu cử nhân
lại đậu tiến sĩ. Sau vì tội lệ sao đó, ông ta bị cách tất cả tiến sĩ cử nhân,
nhưng mà lại được đi thi. Ông ấy đã thi thêm nhiều khoa nữa, song đều trượt cả.
Đến khoa sau cùng, quan trường có ý thương hại, bàn nhau thế nào cũng lấy ông ấy vào ngạch tú tài,
cho khỏi khổ thân ông già.
Kỳ thứ nhất hai bài kinh nghĩa
văn của ông Nhận trôi chảy không sao. Đến kỳ thứ hai là một bài thơ và một bài
phú. Theo đúng trường qui, mỗi trang của quyển thi chỉ được viết làm sáu giòng.
Ở trang đầu, giòng thứ nhất viết đầu bài thơ, giòng thứ sáu viết đầu bài
phú, còn bốn giòng giữa thì để viết tám câu thơ, nhưng ít nhất cũng phải để
giòng thứ năm được có ba chữ. Trái thế là thiệp tích. Rủi cho ông Nhận, viết
chữ mau quá, mới đến nửa giòng thứ ba, đã gần hết sáu câu thơ. Còn hai câu nữa,
không thể dàn ra cho đủ một giòng thứ tư và ba chữ ở giòng thứ năm. Ông ấy nghĩ
ra một kế rất diệu, là, làm một câu thơ “kim” để nó có chỗ nói đến nhà vua, rồi
lợi dụng cái chữ thuộc về vua đó mà sang giòng và đài lên đầu giòng, cho giòng thứ năm khổng phải bỏ trắng. Bài
thơ khoa ấy đầu đề là “Tâm học uyển nguyên hai câu thơ “kim” của ông Nhận như vầy:
“Tâm kính
trừng thanh hân ngưỡng thánh,
Khẳng giao vật dục luỵ ngô thân”
Theo quy tắc nhà trường, chữ “thánh”
phải sang giòng và viết lên hàng thứ, dù mà nó ở giữa câu. Như thế là tránh
được cái tội “thiệp tích”. Nhưng lại khổ về chữ “ngô”. Hai câu ấy nghĩa như thế
này:
“Trong suốt gương lòng, mừng Thánh thượng,
Há cho vật dục bợn mình ta”.
Ở trên đã nói “Thánh thượng” mà ở
dưới còn nói “mình ta”, tức là bất trang, người ta phê cho chữ “trệ”. Ông ấy lại
bị hỏng. Oan uổng biết chừng nào.
Lối văn khoa cử đã là một thứ hư văn
vô dụng, có thể làm hư những người tập về nghề ấy. Lại thêm những xiềng xích
quái gở như thế thì trong mấy nghìn năm biết bao nhiêu người đã bị chôn sống vì
nó?
Người ta thường trách các nhà văn
học nước ta ngày xưa không phát minh được một điều gì
để lại cho đời sau. Nhưng ở cái nước mà văn học bị nhiều
xiềng xích đến vậy, con nhà văn tránh được khỏi tội đã phúc lắm rồi, thì giờ
đâu mà nghĩ đến chuyện phát minh? Chúng ta chỉ khen các cụ kiên nhẫn sống ở cái nước như thế, mà
vẫn không làm cách mệnh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét