Khiemnguyen

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2013

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí minh về báo chí (phần 1)



QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH H CHÍ MINH VỀ BÁO CHÍ[1] (phần 1)

Hà Minh Đức
Cũng như nhiu vị lãnh tụ của giai cấp vô sản: Các Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh bắt đu cuộc đi hoạt động của mình bằng tiếng nói đấu tranh ca báo chí. C.Mác, Ph.Ăngghen ngay từ trong thi kỳ trẻ đã hăng hái tham gia hoạt động báo chí. Những bài báo của Mác-Ăngghen bênh vực quyền li của những ngưi lao động, phê phán sự bóc lột tàn nhẫn của bọn tư bản, phê phán chế độ kiểm duyệt báo chí khắt khe đã gây tiếng vang rộng rãi. Ph.Ăngghen trong hoạt động báo chí đã nhấn mạnh tính chiến đấu, tính đảng của báo chí để bảo vệ tư tưng, li ích của Đảng.
Phải tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và bảo vệ những lợi ích cửa Đảng, bác bỏ và đánh bại các luận điệu huênh hoang của đảng đối địch[2]. Theo Lênin báo chí thực sự là vũ khí chiến đấu của giai cấp, là cơ quan tuyên truyền, là người tham gia vào việc tổ chức và phát triển xã hội bng hoạt động ngôn luận của mình (17). Sử dụng có hiệu quả báo chí để phát triển lực lượng cách mạng Lênin đã có những ý kiến sâu sắc: “Tác dụng của báo chí không những ch hạn chế chỗ truyền bá tư tưởng giáo dục chính trị, và thu hút những người đồng tình về chính trị, báo chí không những ch là người tuyên truyền tập thể và người cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể[3].
Hồ Chí Minh ngay từ những năm hai mươi đầu thế kỷ đã thấy rõ tầm quan trọng của báo chí cách mạng và trong suốt cuộc đòi của Người, Người đã dành một phần quan trọng của thời gian, dành tâm huyết cho hoạt động báo chí vì hoạt động báo chí cách mạng chính là hoạt động cách mạng trong chiều sâu nhất của sự phát triển của phong trào. Cùng vi việc thành lập t báo Người cùng khổ đ đoàn kết và tổ chức phong trào của các nưc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân Pháp, năm 1920 tại Đại hội Tua, Người đã tố cáo: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền sống hoăc đi du lịch nước ngoài, chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập...”. Tiếng nói ấy càng mạnh m hơn, vang sâu hơn qua nhiều bài viết của Nguyễn Ấi Quốc về chế độ báo chí. Lun đim quan trọng nhất về báo chí mà Ngui khẳng định suốt trong thi kỳ lịch sử dài dưi chế độ thc dân phong kiến là đấu tranh cho quyền tự do báo chí (18).
1. Tự do báo chí là quyền lợi tinh thần to lớn của một dân tộc, một đất nước
Báo chí là hoạt động tinh thần quan trọng của một xã hội. Đó chính là diễn đàn để nhân dân biểu hiện ý chí và nguyện vọng của mình, là thước đo v tinh thần dân chủ có đưc của một xã hội, là gương mặt rõ nét về một trình độ văn hóa và khoa học. Chế độ thc dân Pháp hiểu rõ điều đó nên ra sức đàn áp báo chí. Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên tình trạng nghịch lý và kỳ dị đến nỗi khó mà tin đưc: “Giữa thế kỷ XX này một nuc có đến 20 triệu dân mà không có lấy một t báo. Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một t báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi”. Báo chí lúc này do chính quyền Pháp Đông Dương độc quyền. Báo tiếng Việt phải do Toàn quyền cho phép và bản thảo phải trình duyệt lên Toàn quyền trưóc khi in. Báo chí trong bản chất của nó là gắn bó và đấu tranh cho những khuynh hưng chính trị. Chính quyền Pháp Đông Dương đã cấm ngặt những to đả động đến chuyện chính trị hoặc có liên quan đến chính trị: “Trưc khi đưa đi nhà in, tất cả các bài báo phải dịch ra tiếng Pháp và đưa kiểm duyệt đã. Cấm ngặt những t thông tin ấy không đuơc đả động gì đến những vấn đ chính trị hay tôn giáo mà ch đuc đăng những tin tức thông thưng, những vấn đề xét ra có li cho nhà nước”. Một tờ báo mà không đ cập đến vấn đ chính trị và những chuyện thiết thân đến cuộc sống của người dân thì dần tự thủ tiêu chức năng của mình. Xu hưng chính trị là linh hồn của tờ báo. Nói như Lênin: “Một tờ tạp chí mà không có xu hướng là một điêu lố lăng phi lý, chưng tai gai mắt và có hại. (19).
Chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng chế đ kiểm duyệt gay gắt. Không phi chvấn đề chính trị mà cả những chuyện kinh tế, chuyện sinh hoạt hằng ngày cũng bị theo dõi và kim duyệt gắt gao. Bọn thực dân Pháp chính là những con sói già ranh mãnh, chúng hiểu rằng đng sau một vn đề kinh tế bao gi cũng tiềm ẩn một quan điểm chính trị, một cách bình luận và khai thác có ý nghĩa chính trị.
Các bạn ch tưởng rằng mấy tờ báo thông tin khốn khổ ấy đưc tự do phân tích những cái thuộc về kinh tế. Chẳng hạn họ không đưọc nói đến đi sống đt đỏ, đến việc mất mùa, đến việc buôn gian bán lận của bọn con buôn người Âu, đến việc xoay s tiền nong bất lương ca bọn quan cai trị, đến những vụ đầu cơ đê tiện của bọn chủ đồn điền và chủ nhà máy người da trắng”.
Tác giả Nguyễn Ái Quốc phê phán tình trạng mất tự do của báo chí dưi chế độ thực dân Pháp nhưng đồng thời cũng nêu lên những ý tưng quan trọng về chức năng của báo chí. Báo chí dưi chế độ cũ phải thực hiện đúng chức năng phê phán, phê phán chế độ chính trị tàn bạo và khuynh hưng nô dịch hóa của bọn thực dân, phê phán trên bình diện rộng lớn nhiều vấn đề kinh tế và từ đấy vạch trần những hành vi chính trị của giai cấp thống trị, bọn quan lại da trắng và những kẻ đồng mưu[4].
Và tình trạng đàn áp báo chí, đàn áp các nhà báo đã bộc lộ tính chất phát xít của chế độ thực dân phong kiến: “Ông Phan Văn Trường một nhà báo Việt Nam đã bị hai năm tù vì ông đã có tội đăng lại một bài của báo Nhân đạo bàn về sự Đoàn kết huynh đệ với Cách mạng Trung Hoa... Hai anh em ông Vương Gia Bột và Vương Gia Ngãi Trung Kỳ đã bị kết án một người (20) ba năm tù, một người hai năm chì vì có tội là bày vào tủ hàng sách của các ông quyn Tiểu sử Tưởng Giới Thạch[5]. Một học sinh 17 tuổi bị giam cho đến tuổi thành niên vì đã làm bài thơ Chiêu hn nước[6].Tác giả Nguyễn Ái Quốc trong bài nói về chế độ báo chí cũng kể rõ tình trạng đàn áp báo chí ở Đông Dưong. Tờ Người cùng khổ bị chính phủ Pháp “có lệnh cấm không cho tờ báo đó vào các thuộc địa. các thuộc địa nhất là Đông Dưong ai đọc Người cùng khổ đều bị bắt”. Và còn nữa...
“Người ta cấm ngặt không cho đọc báo Nhật Bản và Trung Quốc. Giữ một tờ tạp chí, một quyển sách Trung Quốc nào đó có thể là một trọng tội đối với người Việt Nam. Tôi biết nhiều nhà văn thân bị kết án khổ sai chung thân vì đã đọc tạp chí Trung Quốc hồn, m băng và những bài cùng loại ấy của nhà duy tân Trung Quốc. Năm 1920 có nhiều người Việt Nam Bắc Kỳ bị kết án từ hai đến năm năm tù, ch vì một người đã làm thơ ca tụng tự do và các người khác đã nghe ngâm bài thơ”.
Như thế cũng là đủ để nói lên bản chất chế độ thực dân phong kiến. Chúng s hãi những hoạt động tinh thần lành mạnh từ nhng khát vọng tự do ca qun chúng đến ý thức phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội bất công, mà báo chí tiến bộ là tiếng nói đại diện tiêu biểu[7]. Thực tế trên làm chúng ta nh ti ý của Mác trong bức thư gửi Acnôn Rugo ngày 25/1/1843: “Những s báo đã hoàn thành của chúng tôi phải được trình lên cảnh sát, tại đó người ta ngửi chúng tôi tứ phía và ch cần (21) cái mũi của cảnh sát đánh hơi thấy một điều gì đó không mang tính chất đốc giáo, không mang tính chất Phổ thì số báo ấy sẽ không được ấn hành[8].
2. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng
Báo chí xuất hiện và phát triển do yêu cầu thông tin chính trị; kinh tế và giao lưu văn hóa tư tưởng của xã hội. Và ngay từ những tiếng nói đầu tiên đơn giản nhất, báo chí đã mang theo khuynh hưng và người hoạt động trong lĩnh vực này lại càng phải có ý thức v xu hưng chính trị của mình. Với báo chí cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ch rõ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ[9].     
Trong những lời kêu gọi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhng đoàn thể cách mạng Người thưng hay dùng hai chữ chiến sĩ, nhà văn chiến sĩ (“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mt trn y”), nhà nông chiến sĩ (“Ruộng rẫy chiến trưng, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ. Hậu phương thi đua với tiền phương”). Người muốn nhấn mạnh qua hai chữ chiến sĩ ý thức tư nguyện và năng động, tinh thần xung phong quả cảm trong mọi công việc. Mỗi người phải là chiến sĩ trên mặt trân đấu tranh của mình, quân s, chính trị hay là văn học nghệ thuật. Đối vi nhà báo phải có dũng khí, không để ngòi bút lệ thuộc vào tin tài, danh vị, quyền lực, không bẻ cong ngòi bút và nhân tố quyết định cho phẩm chất đó là “lập trưng chính trị vững chắc”, “chính trphải làm đúng (22). Đưng lối chính trị đúng thì những việc khác mi đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đưng lối chính trị đúng”.
Đưng lối chính trị thể hiện trong nhiều phạm vi khác nhau. Có khi là nhiệm vụ chính trị của một đất nước, một dân tộc, trong một giai đoạn nhất định. Có khi nhiệm vụ chính trị mở rộng ra liên kết được nhiều tiếng nói khác nhau của các dân tộc trưóc một mục tiêu chung. Ngay từ khi sáng lập tờ báó Le Parìa, Người đã góp phn thức tỉnh tinh thần chống thực dân nhiều nưc thuộc địa, khơi nguồn cho làn sóng cách mạng lớn lao của các nưc th ba chống thực dân đế quốc. Mục tiêu chính trị đúng đắn đã tạo nên sức mạnh tinh thần cho tờ báo, đem lại dũng khí cho các cây bút mà không một thế lực nào của chủ nghĩa thực dân có thể khuất phục được. Gần nửa thế kỷ sau trong bức điện mừng các nhà văn Á- Phi, những người bạn chiến đấu chống chủ nghĩa thc dân cũ và mi, Người vẫn có th viết : “Đối vi những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mng để đảng viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mi, chống chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới[10]. .
Làm theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam suốt trên 6, 7 thập kỷ đấu tranh luôn gắn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Báo chí đã góp phn vào công cuộc giải phóng đất nước làm nên Cách mạng tháng Tám và báo chí đã phục vụ sát sao hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc; báo chí thực sự khởi sắc và góp phần hiệu quả vào công cuộc đổi mi của dân tộc (23).


[1] Hà Minh Đức, Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
[2] C.Mác, Ph. Ăngghen. Toàn tập, tiếng Nga, tập 4. tr. 217.
[3] VI.nin. Thư gửi AM.Goocki, Toàn tập, NXB Sự thật, H, 1974, tập 34, tr. 591
[4] Hà Minh Đức, Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.20
[5] Cuốn sách được viết khi Tưởng Giới Thạch còn ở trong đội quân cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo.
[6] Trường hp Phạm Tất Đắc
[7] Hà Minh Đức, Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.21.
[8] CMác và PhĂngghen. Toàn tập, tập 27, tr. 606.
[9] Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ ba của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 8/9/1962.
[10] Báo Nhân Dân, ngày 24/4/1965.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét