(Nguyễn Bùi Khiêm) Năm 1931, trên Đông phương, Ngô Tất
Tố với bút danh Thục Điểu đã có một loạt bài có tính chất “bút chiến” với Hoàng
Tích Chu, có thể nói đây là cuộc chiến phong cách viết báo của những người thuộc
phái Nho học với những người thuộc phái Tây học mà Hoàng Tích Chu là người mở
màn.
Để có thể có cách nhìn đầy đủ hơn, xin giới thiệu với
các bạn toàn văn một số bài báo đó..
84. Tại sao Đông
Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu (bài 1)
Mấy số báo trước, trên tờ Đông phương có lời xin các vị lai câo (bài gửi đến để đăng báo) đừng bắt Đông phương phải nhận những bài
viết bằng lối văn ông Hoàng Tích Chu. Các ngài chừng
cũng hượng tình, mấy bữa nay quả
nhiên không phải nhận bài nào bằng lối văn ấy. Cái thịnh tình đó, ai chứ tôì thì tôì ghì
vào phế phù (nghĩa bóng là bí mật riêng tư).
Một điều mà tôi muốn nói, là, từ khi có lời xin ấy, tuy đã trừ được một nạn và chưa thấy ông bà nào viết thư
phản đối, nhưng chắc đâu trong mấy “nghìn”
bạn đọc, không có người hỏi thầm trong bụng
rằng: Tại sao mà Đông phương nó không ưa lối văn ông Hoàng Tích Chu?
Mà phải, cái lối tuyên án không có tội trạng, không thể khiến cho
ai tin. Đã chẳng muốn trong tập bài lai cảo không có lối văn ông Hoàng Tích
Chu, ít ra cũng phải nói vì cớ gì mà mình không muốn có.
“Vì cớ gì ba chữ đó thật khó cho tôi trả lời. Bởi vì, cái cớ này khác hẳn với các cớ khác. Mắm tôm
tôi không ưa, tôi bảo tại nó thum thủm, bã mía
tôi không ưa, tôi bảo nó không có khí vị, đến như lối văn ông Hoàng Tích Chu thì tôi chẳng biết lấy cái gì mà danh danh trạng (diễn tả) ra
được?
Thôi thì nói vắn chẳng được phải nói dài, bây giờ chi có một cách là đem ít
bài văn thật hiệu của Hoàng me xừ
mà phê bình coi thử.
Văn của Hoàng me xừ, tôi đọc nhiều lắm - đọc để cho biết bài nào cũng như
bài nấy, đều có thể làm tài liệu cho tôi
phê bình. Cái bài mà tôi sắp phê bình
đây là bài mới nhất của ông ta, đầu đề bài thứ nhất là
“Hai cô thiếu nữ trẫm mình”, còn cái đầu đề thứ hai thì hôm nọ vừa thấy ở báo T.L.: “Đọc thời sự có cảm”.
Thoạt kỳ thủy Hoàng me xừ giở địa dư học của mình ra nói rằng “ở Hà Nội có
bốn cái bồ, hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bẩy Mâu, hồ Gươm”. Thế rồi me xừ
bắt vào chép chuyện, cái đoạn ấy nguyên văn như vầy:
“Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch như chỉ riêng là nơi đắc địa cho tấm thân bạc mệnh.
“Vì” cái tin thê thảm gây nên chẳng mấy khi tự trên mặt hồ Bẩy Mẫu hay hồ Tây”.
Độc giả nghĩ coi, mấy câu đó là nghĩa thế nào! Chữ “vì” đó tôi không hiểu
tác giả muốn nói vì sao hay vì trăng, chứ nếu dùng theo tính chất của nó thì
thật bất thông chí thậm (hết sức, quá mức). Chữ quốc ngữ vẫn mang tiếng là nôm na, nhưng chữ nào cũng có nghĩa nấy.
Chữ vì dùng vào chỗ giải thích cho một câu nào ở gần với nó hoặc trên hoặc dưới. Hai câu trên kia,
nếu theo đúng nghĩa chữ vì thì phải đặt như thế này:
“Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch như chỉ riêng là nơi
đắc địa (theo chữ của ông Chu) cho tấm thân bạc mệnh, vì ở đó luôn luôn xảy ra án phụ nữ tự trầm”.
Hay là thế này:
“Hồ Tây và hồ Bẩy Mẫu hình như vô duyên với bọn phụ nữ tự sát, vì cái thảm
trạng ấy chẳng mấy khi xuất hiện ở hai nơi này”.
Đó là tôi chi đặt cho thông chữ “vì” đhứ không phải chữa ông Chu nghĩa là
tôi chỉ giả thiết làm mẫu để tỏ cái chân tướng “vô nghĩa” của hai câu kia mà thôi. Muốn cho rõ nữa, tôi xin theo kiểu bai câu đó mà đặt thêm một câu ví dụ:
“Anh Xoài như chỉ thích riêng về rượu, vì hơi men chẳng thấy ở nhà anh
Mít”.
Đó, độc giả nghe thử có thông hay không? nhà anh Mít chẳng có hơi men thì
can dự gì đến cái thích rượu của anh Xoài mà lại dắt cái nọ làm chứng cho cái kia?
Trời ơi! bài của ông Chu hãy còn dài lắm, mới phê bình được một đoạn mà hết một cột rồi.
Xin hoãn, khi nào có dịp tôi sẽ nói nốt.
|
Thục Điểu
Đông phương, số 462, 1931
|
85. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông
Hoàng Tích Chu (bài 2)
Cái
bài “Đọc thời sự có cảm" của ông Hoàng Tích Chu, hôm qua tôi mới
phê bình được một đoạn đầu. Xem mấy câu phê bình ấy, chắc cũng có người cho là
nghiêm khắc. Xin ai nấy cứ đem nguyên văn của ông Chu mà đọc đi đọc lại, rồi tỉ
mỉ nghĩ cho thật kỹ, thì sẽ thấy những câu phê bình chẳng nghiêm một chút nào.
Trong
đoạn ấy lại có một chữ vô nghĩa hơn nữa, ấy là câu “cái tin thê thảm gây nên
chẳng mấy khi thấy tự trên mặt hồ Bẩy Mẫu hay hồ Tây”.
Văn
quốc ngữ cũng như văn Pháp trong một câu ít ra cũng phải đủ hai bộ phận: chủ từ
(suject)
và động từ (verbe), động từ phải theo tính chất của chủ từ, đó là
luật thiên nhiên của các thứ tiếng.
Trong
câu “cái tín thê thảm gây nên chẳng mấy khi thấy tự trên mặt hồ Bẩy Mẩu hay hồ
Tây” thì chủ từ hẳn là chữ “tin” mà động từ của nó hẳn là chữ “gây”; theo luật
thiên nhiên của văn quốc ngữ thì chữ “gây” không thể làm động từ cho chữ “tin”
được. Bởi vì “tín” cũng như một vô cơ, chĩ có vật khác gây nó, chớ tự nó không
thể gây được lấy nó bao giờ.
Chữ
“thấy” càng vô ỷ thức hơn nữa. Lấy ý mà xét, thì chữ “thấy” này chăc là động
từ, vậy thì chủ từ của nó là chữ gì? Không có chủ từ chăng? Cái luật thiên
nhiên của chữ quốc ngữ không cho ai dùng động từ không có chủ từ. Chủ từ là chữ
tin (thê thảm) đó chăng? Luật thiên nhiên kia không cho đặt chữ như thế. Bởi
vì, như trên đã nói, tin cũng như vật vô cơ, chỉ có vật khác thấy nó, chớ tự nó không
thể thấy được.
Hai
chữ “trên mặt” theo nghiêm cách mà nói, cũng không có nghĩa lý gì cả. Vì rằng
chủ từ của câu đó là chữ “tin”, tin là vật vô hình, nghe được, chứ không trông
được. Chăc không ai trông thấy cái tin nào vơ vẩn hay phập phềnh nằm trên mặt nước.
Thế
thì cần gì phải đặt hai chữ “trên mặt” vào đó?
Tóm
lại, thì câu này chẳng phải có ý nghĩa cao thâm gì, cứ đặt là “những án phụ nữ
tự trầm chẳng mấy khi xảy ra ở hồ Bẩy Mâu hay hồ Tây” thế là rảnh việc, làm chi
phải cầu kỳ đến những chữ “trên mặt”..., “gây nên”, vẽ cọp mà chẳng thành cọp.
Phê
bình tì mỉ thế này, độc giả hoặc cũng có người cho là bới lông tìm vết, nhưng
không phải vậy đâu. Những vị cứ viết bài theo lối văn ông Hoàng Tích Chu mà lai
cảo cho Đông phương là vì không thấy những chỗ tỉ mỉ ấy,
mà Đông phương không hoan nghênh lối văn ông Hoàng Tích Chu cũng có một
phần vì chỗ tỉ mỉ đó.
Viết
đến đây, tôi lấy làm lo! Lo vì cái bài tôi phê bình dở dang này còn dài dằng dặc,
mà phốt chữ phốt ý còn nhan nhản như trấu xay, biết phê
bình cho đến
bao giờ cho xong. Có lẽ, vì sợ chán tai độc giả, ngày mai tôi sẽ nói xen chuyện
khác.
|
Thục Điểu
Đông phương, số 463, 1931
|
87. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông
Hoàng Tích Chu (bài 3)
Phiền quá,
có một câu hỏi như trên, mà trả lời đến hai cột báo chưa trôi, cho hay cái
sự nghèo tiếng thật khổ!
Giả
sử nước
mình có được một hình dung từ (adjectif) được
đức tính cua lời
văn ông H.T.Ch. thì mình đâu có phải tốn thì giờ thế này?
Thôi
thì tốn thì giờ thì tốn, mình cũng không mất
vốn
mất lãi gì
vào đấy.
Nước mình đã xảy ra lối văn ông Hoàng Tích Chu, mình cũng nên hy sinh một vài
giọt mực.
Hai
hôm trước đã nói hết một đoạn đau trong bài Đọc thời sự có cảm
của
ông
Hoàng
Tích Chu, hôm nay phê bình đến đoạn thứ hai của bài ấy xin nói rõ rằng: những
chữ “đoạn đầu”, “đoạn thứ hai” này là tự tôi đặt ra để đánh dấu cái kiệt tác
của Hoàng me xừ, cho tiện lúc nhắc đến, chớ nguyên văn thời không có chia
đoạn.
Đoạn
thứ hai này như vầy:
“Theo
thuyết nhà địa lý, cái chết cũng cần có ý vị như cái sống. Cái sống của con chim
khôn là ở nóc nhà sang thì cái chết của con cáo phải quay đầu về núi.
Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch là hai làn nước đẹp có cảnh xinh xinh. Chết ở đấy như thấy có lý thú hơn dìm thân
trên làn nước
khác”.
Đoạn
này hai câu cuối, về lời văn, không có gì cần phải phê bình. Chỉ cần phê bình
hai câu trên.
Ở
câu thứ nhất, chữ địa lý có lẽ do chữ triết lý lầm ra đó chăng? Nếu thật là chữ
địa lý thì vô nghĩa lắm, vì như câu dưới nói cái chết cũng cần có ý vị như cái
sống thì là giọng triết lý mới phải. Địa lý là môn học chuyên về tìm đất cầu
phúc, không hề nói đến ý vị của cái chết.
Đến câu thứ
nhì “cái sống của con chim khôn là ở nóc nhà sang, thì cái chết của con cáo phải quay đầu
về núi” thì cái chữ “thì” ở giữa nó bất thông không biết
chừng nào.
Theo
thói quen của ông cha mình vẫn nói, “thì” ngoài cái nghĩa là ngày giờ, còn
nhiều nghĩa khác:
Có
nghĩa dùng để so sánh với
thời gian. Ví như “anh A đương viết thì anh B vừa vào” hay là “anh D đi rồi thì
anh c mới đến”.
Cổ
nghĩa dùng để so sánh cự ly. Ví như: “Hùm tha con lợn không sao, mèo tha miếng
thịt thì nào với ông”.
Có
nghĩa dùng để tỏ rõ nhân quả. Ví như “chồng ăn chả thì vợ ăn nem”.
(Còn
nhiều nghĩa nữa nhưng không cần nói hết vì nó không quan hệ đến chữ “thì” ở
đoạn trên đây).
Xét
trong mấy nghĩa đó, thì, chữ “thì” trên kia của ông Chu chắc không dùng về
nghĩa so sánh thời gian, không dùng về nghĩa so sánh sự lý, có lẽ đùng như cái
nghĩa tỏ rõ nhân quả. Ấy! cái bất thông nó ở chỗ đó.
Người
ta nói chồng ăn chả thì vợ ăn nem, chữ “thì” ấy có hàm ý rằng vợ ăn
nem bởi tại chồng ăn chả, hai việc ấy có nhân quả với nhau. Đằng này việc con
cáo chết quay đầu về núi với việc con chim khôn ở nóc nhà sang có dính nhau
chút nào? Con chim khôn chẳng ở nóc nhà sang, con cáo chết cũng vẫn quay đầu về
núi; con cáo chết quay đầu về núi, chẳng bởi con chim khôn đậu nóc nhà sang,
thế, thì làm sao lại tương chữ “thì” vào giữa?
Dưới
đoạn này thì đến một đoạn rất cười hơn nữa, có lẽ đoạn ấy là đại biểu cho chân
tướng lối văn cùa ông Chu, ngày mai tôi sẽ nói đến.
|
Thục Điểu
Đông
phương, số 465, 1931
|
88. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông
Hoàng Tích Chu (bài 4)
Hôm
qua, tôi có giới thiệu với độc giả cái đoạn văn tức cười mà tôi cho là đại
biểu của lối văn ông Hoàng Tích Chu. Đây cái đoạn kiệt tác ấy nó như thế này:
“Những
nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó như có một cái sức
mạnh vô hình nó đã quen hút những linh hồn vô hy vọng (sức mạnh ấy có lẽ như ta
gọi là con nam). Vì luật tự sát có hai thứ: thứ chết đúng một chỗ, thứ chết
đúng một giờ, luật ấy theo thời gian, làm định lệ”.
Đó
là tôi chép đúng nguyên văn, một cái via-rơ-guyn[1]
cũng không dám để sót.
Đọc
hết đoạn ấy, ai mà hiểu được rõ, cắt nghĩa được thông, tôi xin chắp tay lạy hai
lạy mà tôn làm ông thánh. Tôi thì tôi chịu, chẳng biết đằng nào mà mò. Mà tôi
tưởng trong khi viết đoạn văn ấy, “viết giả” nếu có đọc lại cũng chưa chắc đã
hiểu. Phải, khó hiểu quá, tôi xin nhắc lại mỗi câu một lượt nữa:
“Nhà
xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó như có một sức mạnh vô
hình nó quen hút những linh hồn vô hy vọng”.
Đến
đây là hết một câu đầu, rành rành có dấu chấm dứt (point). Trong câu ấy, ba chữ “nhà xã hội
học” là chỉ vào ai? Ai là nhà xã hội học ấy? Hỏi vậy, hoặc giả người trả lời
rằng ba chữ xã hội học đó ấy là nói vu vơ, không chỉ vào người nào.
Thưa
rằng không thể
thế
được. Cứ đem câu đó mà giải phẫu từng khúc thì biết.
Nhà
xã hội học làm gì?
Nhà
xã hội học theo lý thuyết của Durkheim
Theo
lý thuyết của Durkheim thì sao?
Thì
cho hồ Gươm và hồ Trúc Bạch có sức mạnh vô hình.
Cứ
thế câu mà xét, thì mấy chữ “có sức mạnh vô hình” tức là cái ý tưởng của nhà xã hội học
theo lý thuyết
của Durkheim mà phán đoán về hồ Gươm và hồ Trúc Bạch đó.
Song
hai cái hồ
này chỉ là riêng của đất nghìn năm văn vật, không phải như mặt trời, trái đất là của chung
của thế gian
mà hết thảy các nhà xã hội học đều nói đến cả. Thế thi nhà
xã hội học nào đã nói đến hai cái hồ ấy phải nói cho rõ ràng ra. Người làm văn
thông thông thì phải như vậy.
Nói
vậy mà chơi, thực ra có lẽ chữ nhà xã hội học, viết giả cũng chẳng định chỉ vào
ai đâu, chăng qua quen lối quay cuồng, lộn trên xuống dưới, lộn dưới lên trên, nên mới đặt
câu
như vậy cho khác người. Lấy ý mà đoán, thì, câu đó hoặc như thế này: “Theo lý
thuyết của nhà xã hội học Durkheim
thì... hai hồ đó...”.
Bây
giờ đọc lại câu thứ hai “Vì luật tự sát có hai thứ: thứ chết đúng một chỗ, thứ
chết đúng một giờ, luật ấy theo thời gian, làm định lệ”.
Chữ “vì” ấy là nghĩa thế nào, cớ sao lại đặt chữ
“vì” vào đó?
Làm
sao lại gọi là luật tự sát? Tự sát có phép nhất định hay sao mà gọi là luật.
Theo thời gian, làm định lệ là cái nghĩa gì?
Thật
là thánh cũng không hiểu được.
Tóm
lại, đoạn này thật là lù mù lờ mờ, chẳng có nghĩa lý chi hết. Chẳng qua tác giả
muốn lòe những kẻ không mắt, làm ra bộ ta có học đây, nhưng chết vì cái học nó
lại chẳng nằm ở óc ngài, không lấy đâu mà lôi ra được, cho nên ngài mới dùng
cái lối văn lù mù lờ mờ quay cuồng lộn ngược như thế! để cho người ngu khỏi
thấy bản tướng của mình.
Ấy cái lối văn của
Hoàng me xừ phần
nhiều mù mờ lộn ngược như vậy.
Cái
lối văn ấy, Đông phương không muốn có.
|
Thục Điểu
Đông
phương, số 466, 1931
|
89. Tại sao Đông Phương không muốn có những bài lai cảo bằng lối văn ông
Hoàng Tích Chu (bài 5)
Đông
phương không thể hoan nghênh những bài lai cảo bằng lối văn
ông Hoàng Tích Chu là tại cái lối văn ấy luôn luôn dùng cách quay cuồng tráo
lộn, lù mù lờ mờ, hôm qua tôi đă nói vậy.
Phải,
“lù mù lờ mờ, quay cuồng lộn ngược” đó
là đặc điểm của lối văn Hoàng me xừ. Song tám chữ đó chẳng qua tôi nói lấy gọn
đó thôi, không phải đã tả hết được cái chân tưđng của lối văn chương đại gia
kia đâu, còn nhỉều cái đặc điểm khác. Nhiều lắm, “ăn gian” cũng là một đặc điểm cửa lối văn ấy!
Nói vậy chắc độc giả lấy làm lạ. Văn gì lại có thứ
văn “ăn gian”?
Thưa có. Xin hãy coi lại hai đoạn trong bài “Đọc
thời sự có cảm” mà tôi đem phê bình hôm qua và hôm kia.
Trong
đoạn hôm kia có câu rằng: “Theo thuyết địa lý, cái chết cũng cần có ý vị như
cái sống”.
Trong
đoạn hôm qua, có câu rằng: “Nhà xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai
hồ đó như có một cái sức mạnh vô hình nó quen hút những linh hồn vô hy vọng”.
Thấy
hai câu đó, nếu tôi từ xưa không xem nhiều văn của tác giả, thì tôi ắt phải
đoán rằng:
tác giả đã đọc hết hàng tủ sách địa lý; biết thấu tận gốc cái thuyết của
Durkheim cho nên mới đem hai môn học đó mà tóm tắt lại hai câu như vậy.
May
mà tôi lại xem nhiều văn của tác giả, cho nên tôi biết, tôi biết nó là cái lối
văn viết “bịp”. Thật thế, nếu không phải là lối văn “bịp” thì không ai viết
vậy.
Theo
tôi, nghề viết văn..., phải cần có đức thật thà, nghĩa là cái gì mình biết thì
hãy nói, mà đã nói thì phải nói cho rõ ràng gẫy gọn như hai với hai là bốn.
Ví
dụ: muốn đem thuyết địa lý mà chứng cho việc tự sát, thì phải dẫn rõ: câu nào,
đoạn nào ở
sách nào, của ông nào đã nói; hay như dẫn chứng bằng học thuyết của Durkheim
cũng vậy, phải chỉ rõ cho người ta biết cái câu hay, cái đoạn mình
dùng làm chứng đó, nó như thế nào, ở tập nào. Làm vậy, không phải để quảng cáo
cái sức học của mình đâu, cốt để cho người nào chưa biết những cái mình dẫn ra
đổ, có
thể biết chỗ tìm
kiếm,
hoặc để khảo cứu thêm, hoặc để xem rằng mình nói có đúng hay không.
Đằng
này tác giả chỉ nêu lên mấy chữ “thuyết địa lý”, “xã hội học Durkheim” rồi phán
đoán rằng: “cái chết cũng có ý vị như cái sống”, “hồ Gươm, hồ Trúc Bạch có sức
mạnh vô hình” thì người đọc còn biết đường nào mà mò? Biết rằng sách địa lý có
nói “cái chết cần có ý vị như cái sống” không? Biết rằng Durkheim có nói “hồ
Gươm, hồ Trúc Bạch có sức mạnh vô hình hay không? Trừ phi lại đi đọc hết các
sách địa lý, xem hết học thuyết của Durkheim thì không thể nào mà dò được những
câu phán đoán kia là sai hay đúng.
Mà
độc giả đã không có thể biết được sai hay đúng, thì tác giả viết sao, độc giả
phải tin vậy. Như
vậy, thì tôi chỉ học vài chục tên người, hoặc tên học thuyết là tha hồ nói trời nói đất. Giả sử tôi bảo “theo học thuyết của
Phật Thích Ca thì lừa đảo là một việc cứu độ chúng sinh, theo học thuyết của Khổng Tử thì chim chuột là sự hợp với đạo đức” người đọc nếu
không hiểu đạo Phật, đạo Khổng còn biết đâu là tôi nói láo?
Cái lối văn ấy, cái lối văn chỉ nêu mấy cái tên người, tên sách
tên học thuyết để lòe người đó, tôi gọi là lối văn “bịp”. Bịp, vì mình không
học mà làm bộ có học.
Bịp với ăn gian cùng là một môn, Đông phương
không dám ăn gian độc giả thì Đ.P không thích lối văn “bịp”.
|
Thục Điểu
Đông
phương, số 467, 1931
|
92. Còn hôm nay nữa thì xong cái việc mọi ngày
Từ hôm bắt đầu nói về lối văn ông Hoàng Tích Chu đến
nay, tôi lú ruột, không nhớ là bao
nhiêu ngày, nhưng có lẽ đã đầy “cữ” rồi thì phải.
Đầy
cữ rồi mà việc vẫn chưa đâu vào đâu, cho hay lối văn của Hoàng me xừ cũng nhiều
cái đặc điểm thật.
Dù
vậy mặc lòng, tôi cũng xin phép độc giả, nói một ngày nay nữa thôi, rồi hãy tạm
nghỉ. Tạm nghỉ chứ không phải nghỉ đứt.
Cái
kiệt tác của ông Chu mà tôi mượn làm tài liệu để giải cái cớ tại sao Đông
phương không để những bài lai cảo viết bằng lối văn “Hoàng xừ” vào tập lai
cảo, nó còn dài lắm, nếu cứ theo kiểu mọi ngày, mà nói tỉ mỉ từng tí, thì e không hết. Vậy hôm
nay tôi nói theo cách cóc nhảy cho chóng. Nói cóc nhảy nghĩa là nói một quãng
lại bỏ một quãng, bỏ một quãng lại nói một quãng, như con cóc nó nhảy vậy.
Trong
bài này, chỗ gần cuối cột đầu có một câu: “người ta vừa dập xong mối dư luận”,
chữ “dập” đó bất thông.
Bởi vì dư luận không thể dập được... tiếng “mối” chỉ là đầu một vật dài như sợi
chỉ chẳng hạn, ai dập được đầu sợi chỉ bao giờ?
Dưới
nữa có câu “chỉ
cách nhau bẩy tiếng” chữ tiếng đó tác giả muốn nói là giờ đồng hồ, nhưng
chữ quốc
ngữ, giờ đồng hồ mà gọi là tiếng thì cũng chưa lọn nghĩa.
Sang
cột
thứ hai
có câu “Mà
đối với nạn tự sát các nhà triết học thì viết sách khuyên đời, các nhà chính
trị thì lập “công an cục”. Ba chữ “công an cục” đó cũng bất thông. Công an cục
tiếng Pháp là Sureté, ta gọi là Sở Mật thám. Cứ như văn lý câu này thì ra ở các
nước khi thấy
có nạn tự sát người ta mới lập ra Sở Mật thám hay sao! Có lẽ tác giả không hiểu
nghĩa công an cục là gì, cho nên đặt tính đặt hình như vậy.
Qua
trang nhì cột hai của bài ấy, có câu: “Ta thấy rằng xã hội là tấm gương
chói lọi chặn
ngay tầm măt người đời”. Bốn chữ tấm gương chói lọi cũng bất thông (hai chữ xã
hội nguyên từ sách Nhị Trình toàn thư câu “Hướng dẫn xã
hội...”. Gần đây người Nhật mới mượn để dịch chữ Society trong tiếng Anh, rồi sau người Tàu cũng dùng theo,
người Việt Nam lại dùng theo nữa). Theo đúng nghĩa của nó thì xã hội là một
đoàn thể do nhiều người kết hợp mà thành ra. Nghĩa chính thì như vậy, nhưng
thông thường người ta dùng nó theo từng trường hợp. Có khi nói xã hội là chỉ về
đoàn thể của người chung một xứ sở như người ta nói: xã hội Paris, xã hội Nữu ước, có khi nói xã hội
là chỉ về đoàn thể của những người chung một chức nghiệp, như người ta nói: xã
hội chính trị, xã hội lao động; có khi nói xã hội để đối với cá nhân như người
ta nói: ai ai cũng nên hết sức với xã hội.
Coi
vậy, thì xã hội là một đoàn thể hoặc to hoặc nhỏ. Các đoàn thể ấy hay dở không
nhất định..., thế thì tại sao lại võ đoán rằng xã hội là “tấm gương chói lọi”.
Thôi,
nói đến đây đã dài rồi, bài kia còn chỗ bất thông nào nữa xin để trả lại tác
giả.
Chỗ
này tôi phải xin lỗi độc giả một câu: Từ trước đến nay, tôi chỉ phê bình về lối
văn mà chưa từng nói đến ý nên điều đó cũng sợ trái nhất, nhưng trong một bài
mà lời văn đã bất thông đến thế, thì ý văn tưởng cũng chẳng cần phải nói.
Đọc
hết những bài phê bình chắc độc giả cũng lượng cho rằng: Đông phương
không đưa những bài lai cảo viết theo lối văn Hoàng xừ, không phải là nghiêm
ngặt chi hết.
|
Thục Điểu
Đông phương, số 470, 1931
|
106. Ông Hoàng Tích Chu đâm khùng
Nếu
vì việc cá nhân mà Thục Điểu với Hoàng Tích Chu tranh biện thì cuộc tranh
biện chỉ là việc riêng của Thục Điểu với Hoàng Tích Chu. Người thứ ba Bút Thép
chẳng hạn, không có quyền, hay nói cho đúng, chẳng hơi đâu mà can thiệp đến.
Nhưng Thục Điểu công kích Hoàng Tích Chu là công kích về văn: lối văn Hoàng
Tích Chu.
Đã
là một lối văn thì hay dở đều có ảnh hưởng đến văn giới tức là đến tương lai
của xã hội. Một người đọc, nghe theo tiếng gọi cùa quyền lợi,
như ý muốn hay bất đắc dĩ, phải đứng làm kẻ trọng tài. Không lẽ ngồi làm thinh
ở trước một cuộc tranh luận nó đã sắp đến thời kỳ “câu chuyện việc làng”. Tôi
vì bất đắc dĩ hơn là theo ý muốn phải mang ngòi bút để xen vào giữa đôi câu
viết của Hoàng Tích Chu và Thục Điểu.
Trong
luôn mấy kỳ báo Đông phương, ông Thục Điểu bình phẩm lối văn ông Hoàng
Tích Chu, nói văn ông Hoàng Tích Chu chỉ kêu mà vô nghĩa. Muốn cho lời nói có
bằng cứ, ông Thục Điểu trích nguyên một bài văn cùa ông Chu và chỉ rõ những chỗ
ông Chu viết chẳng thành câu và những câu ông Chu viết không có nghĩa. Ông Thục
Điểu nói phải hay quấy các độc giả cũng là người đứng trọng tài như tôi đều đã
có định kiến riêng, tôi bất tất phải biện bạch cho ông Thục Điểu vì ông Thục
Điểu không cần ai biện bạch giúp.
Cũng
như các độc giả, tôi chờ, chờ ông Hoàng Tích Chu - nếu ông còn có chỗ nói - mang biện bạch cho lối văn ông trên
mặt báo Đông Tây để phá đổ cái lý thuyết của ông Thục Điểu.
Ông
Chu có làm thực.
Dưới
cái đầu đề “Một dịp cho tôi nói đến lối văn Hoàng Tích Chu" ông chủ
nhiệm báo Đông Tây đã kéo bốn bài mà chưa biết còn mấy bài nữa sẽ ra
tiếp. Thoạt nom cái đầu đề, ai cũng tưởng ông Chu đã xây một lớp cho móng vững
chãi để chống đỡ lấy lối văn của ông và lấy lời nói để giải ra rằng văn của ông
viết là... phải. Nhưng... trong ba bài rưỡi, ông Chu kể toàn những chuyện “dạng
ra bà cụ”[2],
nào văn quốc ngữ có tự bao giờ, nào văn ông Vĩnh bê tha, văn
ông Quỳnh dùng nhiều chữ Hán nên bệ vệ. Nói tóm lại, ông Chu nói thuần những ý
người ta đã nói rồi và không dính dớp gì đến
cái lối văn vô nghĩa và chẳng thành câu tức lối văn Hoàng Tích Chu mà ông Thục
Điểu công kích.
Sau
hết đến cuối bài thứ tư ông Chu nói sát vào lối văn của ông. Muốn cho lời nói
có “sức”, ông Chu viện mấy ông Pierre Betrand,
Clément Vantel và De la Fouchardière là những nhà báo trứ danh vào làm thầy
(xin chớ
lầm với chữ làm chứng). Cứ như ý ông Chu nói thì văn ông viết bây giờ là bắt
chước ba nhà làm báo vừa nói đó. Phải, văn ông Pierre Betrand ông Clément Vantel và ông De La
Fouchardière, câu viết vắn tắt và lời nói gọn gàng. Tôi và ngay cả ông Thục
Điểu nữa cũng không nói viết thế là dở. Nhưng ông Chu có lẽ quên chưa nhận rằng
ông bắt chước ba nhà làm báo trên, nhưng còn ở cách xa ba ông nhiều quá. Nếu
ông Chu quả quyết nói văn các ông p. Betrand,
c. Vantel và De La Fouchardière viết giống hệt văn ông Chu bây giờ, nghĩa là
trong cái gọn gàng vắn tăt cũng có những câu vô nghĩa bất thông, thì thực ông
Chu khen các ông mà hóa ra bôi nhọ các ông vậy.
|
Bút Thép
Đông phương, số 486, 1931
|
107. Thử bắt chước kiểu văn Hoàng xừ viết một bài kỷ thuật nạ ô tô chồng
Lấy
con gái vua Động Đình ông Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng dựng nên nước Nam, và sinh
vua Lạc Long.
Nối
nghiệp cha vua Lạc Long kết duyên với bà Âu Cơ, sinh một trăm con, nửa trai nửa
gái.
Năm
mươi con trai về núi theo cha. Vì năm chục con giai về biển theo mẹ. Người cả
kế ngôi vua gọi là Hùng Vương. Rồi sau mười tám đời nữa đều gọi là Hùng Vương
cả.
Đóng
đô ở Thành trôn ốc, ông Phán họ Thục gọi là An Dương Vương lập nước Văn Lang
của họ Hồng Bàng.
Con
gái phản cha, nước Thục mất về họ Triệu. Lã Gia chống nhau với nhà Hán, nước ta
phải làm thuộc địa của nước Tàu. Đều thất bại, bà Trưng, bà Triệu, vua Phùng,
vua Mai, trước sau một lũ nữ kiệt anh hùng nổi lên đánh Tàu (sic).
Nhà
sử thần theo ký tái (ghi chép lại) của Lê Văn Hưu, (!) thì sau những đời Lý Nam Đế,
Triệu Việt Vương, vua Quyền họ Ngô đóng đô ở Phong Khê và đánh được nhà Nam Hán
(!).
Dẹp
mười hai sứ quân Tiên Hoàng nhà Đinh yên được nưđc Nam. Ngọn cờ lau phất nên nền độc lập.
Khoác
tấm áo rồng vàng (!) mụ Dương hậu chẳng thương con mà thương trai, thì vua Đại
Hành làm vua nhà Tiền Lê.
Con
nuôi nhà sư, ông Lý Công uẩn tòng nhà Tiền Lê mà có nước. Hoa sen
nở
được
tám cánh, chậu nước
Chiêu Hoàng vẩy cho Trần Thái Tôn (!)
Bị
bắt về bên Minh, cha con Quý Ly cướp nước của họ Trần mà không giữ được.
Múa
gươm thần ở núi Lam cụ Lê Lợi bình Ngô, đại cáo dân nước.
Ra
tay dấy nước vua Gia Long định vạc kinh Phú Xuân. Vì nhà Tây Sơn đã đuổi họ
Trịnh mà làm vua.
Chẳng
nghe lời ông Nguyễn Trường Tộ vua Tự Đức đóng cửa cài then gây nên cuộc bảo hộ.
Gần
trăm năm, văn minh nưổc Pháp, tràn đất Việt Nam, chính phủ đem các kỹ nghệ sang
ta, ngoài các máy móc, xe lửa và xe hơi đều tiện dụng cho người mình, giống
Việt Nam, quê hương vua Kinh Dương, rể vua Động Đình, cái nỏ lớn của nước
Tàu.
Đè
người ít, xe lửa chạy đường sắt, người dễ tránh. Bánh nhựa quay tít trên đường
nhựa, người khó tránh, xe hơi đè người nhiều.
Thì
chiều hôm qua, bon bon trên con đường X. chiếc xe số A. đập đầu vào chiếc xe số B. sau
một tiếng ình.
Máu
luễ loại, tay gẫy nhừ, bác tài phải xe vào nhà thương, quan đốc tờ buộc thuốc,
tính mệnh rất nguy.
*
*
*
Coi
bài này chắc độc giả không thể nào hiểu được đầu đề rõ là cái gì? Cái gì mà nói
chuyện xe hơi lại nói mãi từ đời Hồng Bàng nói xuống?
Xin
thưa, đó là tôi thủ bắt chước kiểu văn của Hoàng Tích Chu mà viết chơi bài kỷ
thuật về nạn ô tô đó.
Theo
kiểu văn của Hoàng xừ, vô luận bài nào đều có thể nói bắt đầu từ đời Hồng
Bàng tất cả. Chẳng tin các ngài lục những bài “Có dịp cho tôi nói về lối văn
Hoàng Tích Chu" mà xem.
Cái
đầu đề ấy, Hoàng xừ viết đến năm bài rồi. Bài thứ nhất một cột, rao rằng nay
mai sẽ nói về lối văn của mình. Với đầu đề chưa ăn thua gì hết. Bài thứ hai độ
hai cột kể từ lúc
chữ quốc ngữ được dùng vào báo chí, lôi từ Đại Việt công báo, Đại Nam đồng
văn lôi xuống, rồi vơ sang văn ông Quỳnh, ông Vĩnh. Với đầu đề cũng chẳng
ăn thua gì. Bài thứ ba lại hai cột vẫn giảng về văn ông Quỳnh ông Vĩnh, những
là văn ông này thế này, văn ông kia thế kia. Với đầu đề cũng vẫn chửa ăn thua
gì.
Bài
thứ tư chép lại đoạn lịch sử của mình sang Pháp, và giở ra những ông Pieưe Bertrand, Clement Vantel, Fouchardiere, cuối bài mổi ló ra hai
quyển sách của mình, chỗ đó mới dính đến đầu đề một chút. Bài thứ năm ba cột dở
dang, khoe cái văn minh hay mà chẳng nói được cái hay nó thế nào.
Độc
giả thử đem thể văn những bài ấy mà so với bài tôi kỷ thuật nạn ô tô trên kia
có khác gì không. Thật không khác. Cái lối văn ây nó là lối kể con cà con kê,
nó là lối văn hỏi gà nói vịt.
Thật
thế! Cái đầu là “Có dịp nói đến lối văn Hoàng Tích Chu", làm sao
lại kể cả tam đại của báo quốc ngữ? Làm sao lại lôi cả văn ông Quỳnh và văn ông
Vĩnh vào đó? Như vậy có khác gì thuật nạn ô tô mà giở mãi lịch sử từ cuộc Bảo
hộ đến đời Hồng Bàng?
Cứ
như những người biết viết, có học, thì với cái đầu đề ấy, một bài thứ năm đã
nhiều chỗ thừa rồi (nếu có thì giờ tôi sẽ phê bình bài này) các bài trên đều không
chui vào cái đầu đề ấy được.
Đầu
đề một đằng, bài viết một nẻo, cái lối văn mới hay không mới? Mới lắm! Những
hạng văn sĩ viết văn như vậy, làm văn sĩ thì được, chớ làm thợ vẽ thì không
được. Vì có khi người ta thuê họ vẽ cọp họ lại vẽ ra con chó cũng nên. Thuê vẽ
cọp lại vẽ chó, đâu có phải là thợ vẽ?
|
Thục Điểu
Đông phương, số 488, 1931
|
108. Buồn cười cho óc ông này
Bức thư còn đây, cái câu bênh vực
Hoàng Xừ hắn viết như vầy:
“Còn
như bài mà anh phê bình lối văn Hoàng Tích Chu, ta cũng phục là đúng lắm.
Nhưng... cái lối văn cộc đẻ ra từ mấy năm nay mà sao chẳng thấy báo nào công
kích bình phẩm... ? Bình phẩm văn cộc là tự anh gây ra, nên những thằng V.C. và T.V. cũng a
dua...”
Lạ
chưa? Không hiểu bộ óc của người này nặn bằng chất gì mà kỳ quái như thế? Đã
biết người ta công kích văn của Hoàng Xừ là đúng, mà lại còn bảo người ta a
dua, mà lại còn hỏi làm sao từ xưa không thấy báo nào bình phẩm, óc đâu có óc
ngu vậy?
Thảo
nào cánh bịp họ cứ nhè những người này mà lợi dụng.
Ta
thấy kẻ “quých” cứ đem tiền mà nhét vào túi bọn thầy tướng thầy số, hay cứ đem
thân mà dâng cho lũ mẹ mìn, thì ta cũng cho là ngu, song, còn có thể thứ được,
vì họ bị “bịp” mà không ai giảng cho họ biết. Đằng này mắt hắn tuy chẳng nhìn
thấy, thì đã có người vạch cho hắn rõ ràng, hắn đã biết là “đúng” rồi, thế mà
vẫn cứ bị bịp! Đến Bụt cũng không nín cười được.
Chẳng
biết anh chàng này có phải là con hương đệ tử của ông Chu hay không, sao mà hắn
mê tín đến thế?
Cũng
may mà hắn thóa mạ Thục Điểu, chớ nếu hắn tán dương Thục Điểu, thì thật nhục
cho nó
lắm.
Đó
là hạng người hoan nghênh văn của Hoàng Xừ.
|
Thục Điểu
Đông phương, số 489, 1931
|
109. Ông Hoàng Tích Chu lại phô thêm máy
cái dốt
Con
giun dẫm mãi cũng quằn, huống chi con người, tôi biết
vậy. Ông Chu là người chớ chẳng phải là giun, dẫm mãi tất nhiên ổng cũng phải
hơn giun, tôi cũng biết vậy.
Biết
vậy mà tôi còn bình phẩm mãi mãi về văn của ông Chu, ấy là vì có hai mục đích,
tôi đã nói trước, một là muốn tỏ rõ cái cớ tại sao Đông phương không ưa
lối văn Hoàng xừ, hai là muốn cho vườn quốc văn khỏi có hoa rờm cỏ
rác. Sau nữa cũng muốn coi chơi cái “quẫn” của ông Chu nó như thế nào.
Vì thế mà tôi cố ý chọc cho ông Chu giương hết cái năng lực của mình ra.
Lấy
hơi
hơn ba tuần lễ, ông Chu chỉ cựa cậy được mấy cái.
Cái
cựa thứ nhất phì ra được một mớ dây cà ra dây muống, ấy là những bài “Có dịp cho
tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu ” mà tôi mới bắt chước giọng viết bài kỷ
thuật nạn xe hơi hôm nọ.
Cái
cựa thứ hai phun ra một mớ nọc độc hơi rợ, ấy là những bài thóa mạ Thục Điểu
đăng lên ở báo vô lại.
Cái
cựa thứ ba lòi ra một đống chổi cùn dế rách, ấy là những bài
nói cục nói cằn, nói láo nói xỏ ở mục “chuyện đâu” của báo ổng mà ký tên là Văn
Tôi.
Mỗi
lần cựa thì ổng mỗi nói tháo, nào là bảo tôi “hãy thư”, nào là la rằng “xin
phép kiếu tôi”.
Thật
là ông đã dùng hết phương pháp để làm cho tôi thôi cuộc phê bình văn ông. Tôi
đã chẳng là người từ bi, vọng thể, nhưng giọng khất ai kia cũng phải động lòng
thương xót. Chết là vì cái mục đích của tôi là muốn xem cái quẫn của ông, ông
chưa quẫn, thì tôi phải làm cho ông quẫn đi cái đã.
Sướng
cho tôi quá, hôm kia ông đã quẫn rồi. Chẳng biết ông quay lưỡi mấy trăm vòng mà
lấp quẫn thì ông lại ra được bài “Cớ nên
vạch cho Đông phương mấy điều lầm trong cuộc bẻ vân”.
Bài
này cãi lại mấy chỗ tôi phê bình văn ông trong mục “Nói chơi” độ trước hay nói
cho đúng, cốt xóa cái đống dốt của ông mà tờ Đông phương đã nêu ra đó.
Chắc
chẳng ai nhớ làm gì, cái đống dốt của ông mà tờ Đông phương đã nêu ra
đó, vừa do tôi vừa do ông Trung Trung Tử ở Sài Gòn cộng có hơn hai mươi cục
(xin tạm gọi là cục). Ấy là mới trong có một bài “hai cô thiếu nữ trẫm mình”!
Mà lại còn nhiều chỗ dốt nữa chưa buồn nói đến.
Hơn
hai mươi chỗ mà ông mới cãi lại - cãi lại bằng cách gỡ ngọng - được sáu chỗ:
Hồ
Gươm, hồ Trúc Bạch như chỉ riêng là..., vì...
Nhà
xã hội học theo lý thuyết của Durkheim thì hai hồ đó...
Ngọn
hồn
Dập
mối dư luận
Cách
nhau bẩy tiếng
Xã
hội là tấm gương
Bị bẻ hơn
hai chục chỗ mà cãi lại chỉ được sáu chỗ, coi đó đã thây cái sức quân của ông
Chu.
Tuy
vậy ông chẳng chịu là dốt, lại thêm một câu rằng: “Trong báo Đông phương
còn nhiều chỗ bẻ nữa, nhưng xét ra có đều vô lý”.
Khốn
nạn cái giọng ấy, cái giọng cãi lại bằng cách ăn gian ấy, bây giờ đã cố lắm rồi,
đem dùng chỉ tổ lòi cái dốt cùa mình ra thôi, chẳng che được nó đi đâu, sao cứ
dùng mãi?
Khốn
nạn hơn nữa, là, trong cái chỗ cãi lại của ông chẳng ăn thua vào đâu, chăng những nó
không xóa được cái dốt trước đi, mà nó lại đưa thêm vào con mắt tôi bao
nhiêu cái dốt khác nữa. Tội nghiệp, ông thật như con tằm chín tự làm kén để trói mình.
Bài
này dài rồi, những chỗ dốt trong văn của ông để sau đây tôi sẽ chỉ rõ nó ra...
|
Thục Điểu
Đông
phương, số 490, 1931
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét