(Nguyễn Bùi Khiêm) Hoàng Tích Chu là một trong những nhà báo đầu tiên của
Việt Nam được đào tạo về nghiệp vụ báo chí
tại Pháp. Tuy thời gian làm báo của Ông không nhiều, nhưng Hoàng Tích Chu đã
được ghi nhận như là một người đầu tiên đưa một phong cách viết báo, làm báo
mới mẻ vào làng báo Việt từ thuở ban đầu. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày mất của
Hoàng Tích Chu (1/1933 – 1/2013), chúng tôi
xin trân trọng được trích đăng một phần tư liệu về Ông được rút ra từ tuyển tập
của Vũ Ngọc Phan.
HOÀNG TÍCH CHU VÀ LỐI VĂN CỘC CỦA ANH
Những năm tôi mới viết văn và viết báo, tôi hay đến nhà in Trung Bắc phố Hàng Bông đệm[1]. Ở nhà in này tôi đã gặp Hoàng Tích Chu, cây bút
được anh chị em thanh niên đương thời rất yêu mến. Anh là người đề xướng một
lối văn mới, người ta gọi là “văn cộc” hay “văn
nhát gừng”.
Trước khi đề cập đến lối văn
Hoàng Tích Chu, tôi muốn nói qua về con
người anh, vì theo tôi, anh có thể tiêu biểu cho lớp nhà văn trẻ vào cuối thập
kỷ 20 sang đầu thập kỷ 30. Anh người làng Phù Lưu thuộc Bắc Ninh (nay thuộc Hà Bắc). Người ta thường nói: “Trai Phù Lưu, gái Đình Bảng”, hai làng giáp nhau, trai và gái đều nổi tiếng tuấn tú, xinh đẹp, tài hoa. Hoàng Tích Chu đã tài hoa
lại đẹp trai, nên được nhiều con gái Hà Nội rất chú ý. Anh có đôi mắt sắc và
thông minh, tầm vóc vững vàng, hơi to ngang một chút không cao, không thấp. Anh
nói chuyện hấp dẫn, luôn luôn dùng hình tượng, lại hay châm
biếm, thỉnh thoảng điểm những tiếng cười giòn giã. Có thể nói Hoàng Tích Chu có
phong thái con người Hà Nội thời đó. Người ta đồn rằng cô Phượng Hàng Ngang
(nhân vật trong Mồ
côi Phượng) là một trong những bạn tình của anh.
Năm tôi mười ba mười bốn tuổi, ngày ngày đi học qua phố Hàng Ngang, tôi đã được trông thấy cô Phượng, lúc đó, cô vào khoảng hăm hai hăm ba
tuổi. Cô ngồi bán các thứ hàng lụa, xa tanh, gấm, vóc tại nhà chồng, nhà này họ
Phan. Chồng cô là một “khách lai” vô công rồi nghề, vào loại công tử bột thời
bấy giờ. Hắn đi đi lại lại suốt ngày ở cửa
hàng để trông kẻ gian, và còn để canh
vợ nữa. Cô Phượng người tầm thước, có đôi mắt bồ câu long lanh, với cặp mi
cong, đôi lông mày xanh và dài, môi đỏ mọng đầy dục vọng, mũi dọc dừa thanh tú, và đôi má
lúm đổng tiền khi cười. Gò má cô hơi cao, ửng hồng, lầm cho khuôn mặt trái xoan
của cô có sức quyến rù giống như nữ diễn viên điện ảnh Marlen Dietrich thời bấy giờ. Cộ Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít
khăn nhiễu tam giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô
hay mặc yếm hoa hiên, quần lĩnh tía
cạp điều thắt lưng quan luc, tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo dài vải phin trắng, may sát
vào thân hình nở nang. Lôi ăn mặc của cô
là một lối rất “nền” của phụ nữ Hà Nội thời xưa. Người ta nói; cô là con người
tài hoa, yêu thích văn thơ, trái hẳn với chồng cô là một gã tốt mã, giẻ cùi. Việc cô bỏ chồng và trốn nhà ra đi, ầm ĩ cả Hà Nôi vì hồi ấy, thanh
niên thủ đô không ai là không biết cô Phượng Hàng Ngang. Nhưng rồi hồng nhan bạc mệnh, cô đã sớm qua đời! Người thì nói cô bị trúng phong mà
chết, người thì nói cô chán đời nên đã quyên sinh. Mồ côi Phượng,
tiểu thuyết lãng mạn tiêu cực, nhân vật Phượng là cô Phượng Hàng Ngang này. Cái
tên Hoàng Hồ trong giai thoại, trong vè, trong tiểu thuyết đã
ám chỉ vào Hoàng Tích Chu. Cô Phượng và Hoàng Hồ đều là nhân vật chính.
*
*
*
... Hoàng Tích Chu thấy tôi làm nghề văn, không đi làm công chức, anh rất
hoan nghênh. Lúc bấy giờ, anh đã thôi
không làm chủ bút Ngọ Báo
của Bùi Xuân Học và đã cho ra tuần báo
Đông Tây, do anh làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút. Báo Đông Tây in ở nhà in Trung Bắc, nên
tôi thường gặp anh.
Vào cái thời người ta quan niệm người làm nghề viết phải sống cho phóng khoáng, nghĩa là biết uống rượu, nghiện
cà phê, biết ra vào tiệm hút, biết đi hát ả đào và có một vài nhân tình nhân
ngãi, thì dưới con mắt anh em làm báo làng văn lúc bấy giờ, tôi quả là một
thanh niên ngây thơ, vì tôi không biết gì về những chuyện đó. Một số người đã
gọi đùa tôi là: “bê-bê-Nes-lê”[2] và cái
tên này Thiết Can mách cho tôi biết.
Hoàng Tích Chu có vốn Hán hoc; vào buổi chữ nho đang tàn tạ, anh được
kể vào hạng những người có trình độ tam trường[3]; còn về Tây học anh biết sơ sơ tuy anh đã từng sang Pháp, ở Paris khoảng một năm trời. Vào thời Andrré
Gide chưa ra quyển Re’ourde L
URSS (ở Liên bang Xô-viết trở về), nhà
văn Pháp này được nhiều thanh niên Việt Nam ưa thích. Một thời gian, đọc Gide
trở thành cái “mốt” gần như cái “mốt”
mặc áo Lơ Muya của phụ nữ Hà Nội. Theo thời Hoàng Tích Chu cũng viết một bài về
Gide, nhưng anh lại viết lầm tên nhà văn này là Charles Gide một nhà kinh tế
học Pháp đương thời, tác giả quyển Economic politique (Chính
trị kinh tế học). Tuy vậy, anh rất có năng khiếu về văn. Từ hồi trẻ anh đã viết
những bài “biền ngẫu” trên tạp chí Nam Phong. Anh dùng loại văn có những câu đối
ngắn gọn này, để phê phán những điều tai nghe mắt thấy. Nhưng với nội dung ấy
mà viết lối “biền ngẫu” tất nhiên không thành công được. Dùng “bình cũ rượu mới” thì đi đến chỗ gò
ép, tối nghĩa. Từ nhỏ dùng lối văn đối nhau, như phú chiêu, kiểu để viết về
thời sự, Hoàng Tích Châu đã xếp “bình cũ” lại và dùng
“bình mới rượu mới”, với ý nghĩ: hình
thức phải phục vụ đắc lực nội dung. Anh viết một lối văn hết sức ngắn gọn, đương thời người ta gọi là “văn
cộc”, “văn nhát gừng” hay “văn Hoàng Tích Chu”.
Trong những năm của thập kỷ 20, quốc văn còn non trẻ, những người viết
quốc văn đầu tiên là những người nửa Tây học, nửa Nho học. Lúc đầu, nhà nho
thuần túy viết văn xuôi bằng tiếng dân tộc rất ít. Nếu họ có hứng về quốc văn
thì họ làm thơ. Đến khi báo chí quốc văn ra đời, do yêu cầu phải có nhu cầu bài
dịch thuật từ các sách Hán văn, mấy ông nhà nho bắt buộc viết văn xuôi. Gọi là
văn, nhưng thật ra các ông cố dịch cho đúng nghĩa, xuôi tai. Câu văn không được trau chuốt, có quá nhiều
từ thì, mà, vậy. Người ta đã
gọi những thứ văn ấy là “thứ văn thì thì mà mà”, “thứ văn vậy vậy”.
Lối văn Hoàng Tích Chu ra đời tiêu biểu cho tư tưởng phản kháng của những
người viết văn trẻ đối với thứ văn “bè ngô bè dừa" của một số nhà nho mới
cầm bút sắt. Vào những năm 1929 – 1930 trên từ Ngọ báo do Hoàng Tích Chu làm chủ bút, anh viết những bài bàn về thời
cục với một lối văn hết sức gọn, những từ mà, từ thiơầ bị loại hết.
Đến khi không còn phụ trách
tòa soạn Ngọ báo
nữa trên tuần báo Đông Tây (số ra
ngày 29-07-1931) do Hoàng Tích Chu làm chủ nhiệm kiêm chủ bút anh phát biểu về
lốì văn của mình như sau:
"... Tôi vốn đã bị cái bả viết văn kéo dài, hàng mười dòng mới hạ được cái chấm dứt câu,
hàng hai ba cột báo vẫn chỉ chọi một ý. Phải
có một lối văn khác. Cái lối viết phải làm sao cho gọn, không thừa nhiều lời.
Đến khi tìm được nó rồi, tôi liền bắt đầu thực
hành bằng những “bài bàn về thời sự”.
Tôi định rằng bài nào cũng vậy, chỉ
được chiếm một cột báo là nhiều lắm”.
“Đó là thời tôi viết cho tờ Ngọ báo năm xưa. Đó cũng là hồi văn Hoàng Tích Chu bắt đầu được
một phần độc giả công kích, cũng như một phần độc giả hoan nghênh. Lâu dần nó
thành ra một lối, mà anh em làm báo như
đã nhận một cách vô tâm, vậy.
“… Tôi đến giờ muốn thực hành cái lối văn H.T.C, ra mọi phương diện khác.
Viết về cuộc phỏng vấn, viết truyện đoản thiên, tôi thấy dễ xoay cán bút, không tốn công lắm như viết một “bài
bàn về thời sự, chỉ trong một cột”, phải chọn từng chữ, phải sửa từng câu. Được
một đằng, hỏng một đằng. Đến khi thực hành lối văn ấy vào những bài nghị luận,
thì thấy ngay một sự khó khăn trình bày trên
mặt giấy.
“Bởi lối văn không cho phép viết dài câu hay thừa
nhiều tiếng, nên mỗi khi giãi bày một lý thuyết nào tôi thây khó xoay xở lắm.
Chân muốn bước đi, mà như có một sức gì ngăn cản lại. Trong khi lúng túng về nỗi tiến thoái ấy, tôi lắm khi tự quên rằng bài viết để người đọc,
không phải chỉ để một mình xem...”.
Trên đây là những lời thanh minh và cũng là những điều suy nghĩ, cân nhắc
của Hoàng Tích Chu. Bài trên đây anh còn viết lối văn bình thường. Cũng trên số
báo Đông Tây nói
trên (số ra ngày 29-07- 1931), anh đăng một bài viết theo lối mới, có đoạn như
sau:
Gớm cho năm 1931!
Thế giới đang khổ về nạn kinh tế[4] Tôi đây cũng chẳng được
yên: hai anh thợ sơn để lại bức tường làng cuỗm
giấy “con công” theo thằng
Cuội; vài ông đại lý tiêu lạm tiền báo tháng, trốn ăn “mắm ngoé” ở xứ
Lào. Đã thiệt một bên, tồi nào thấy một bên có lời: nhà in giục nợ, thợ
chữ thúc bài, mà… bên nách, một bạn
đồng nghiệp cứ nay gãi, mai cào, lắm khi
muốn cười lên tiêng khóc.
Còn mong cái sướng về tinh thần.
Mày bức thư anh lái lọng gửi đến chiều
qua, giấy nhầu bẩn, mực tím phai, nét chữ tháu:
Văn Tôi.
Gái chơi hoang, sao ta cứ đổ tội cho trai quỵếh
rũ? Phùng Đình Mai ưu thịt bóng, sao ta cứ kết án anh lái lọng nhử mồi? Lời Văn
Tôi biện hộ trước tòa Dư luận như đã đến tai các quan tòa Thượng thẩm.
Châu biết Châu có tội, cái tội buồn đồ lậu hẳn
pháp luật không dung. Nhưng thứ đồ lậu của Châu; Văn Tôi đã cãi cho nó không đến nỗi hại vệ sinh như dấm rượu, Vitel pha
nước.
Châu quả nhiên có công làm lợi nền kinh tế 'lúc
này: tiền giam trong tủ mấy anh giàu bẩn được dịp
may đội nón ra đi…
Sốt sắng, Văn Tôi lên tiếng cái trong số 74,
quyết xin cho Châu trắng án. Nhưng Châu có
tội. Tòa Thượng thẩm đãi 3 năm tù, đáng lẽ phải
5.
Ngày nay Châu là tù. Cái thời
giờ ngồi tù, Châu dùng để sửa lỗi theo
phải, hay trái lại, dùng để nghĩ
thêm mưu kế lừa đời một cách diệu hơn.
Trên hai dốc ấy, Văn Tôi nên
liệu cho Châu bước xuống bến nào?
Muôn độ ơn lòng.
|
Nhà pha (quên ngày) 1931
Lái Lọng
|
Chúng ta nhận thấy những câu rất ngắn. Có câu chỉ có hai từ ba từ, bốn từ. Không có một từ thì nào, từ mà được dùng,
cũng dùng một riêng. Các bài viết theo lối trên, tác giả đều ký “Văn Tôi” ở dưới Thể “Văn Tôi” ấy, thể văn buổi
đầu của riêng Hoàng Tích Chu ấy, đã được một số nhà viết báo trẻ thừa nhận và
viết theo. Dương Mậu Ngọc (tức Ngọc Thỏ tức Nhị Lang), Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình
Bính Phùng Tất Đắc, Tchya[5] đều viết lối văn Hoàng Tích Chu trên Ngọ Báo, Đông Tây, Việt
Báo, Nhật Tân, Tân Việt Nam và cả trên tờ Trung Bắc nữa.
Trên phụ trương báo Trung lập ở Sài Gòn (1931) trong bài “Văn nghị luận phải viết
thế nào?", có đoạn hoan nghênh lối văn Hoàng Tích Chu như sau:
“Trong văn quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt
hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là “lối văn
Hoàng Tích Chu”: sự ấy trong làng văn ta hình
như đã công nhận một cách vô tâm rồi. Chẳng luận lối văn ấy
ông Chu sáng tạo ra hay bắt chước của ai, nội một cái biệt lập ra một nhà được
như thế, cũng khá gọi là tay hào kiệt trong làng văn vậy”.
Mạnh dạn sửa đổi hình thức câu văn, làm cho văn xuôi được trau chuốt,
xứng với cái tên của nó, không còn bị coi thường, nôm na, cha mách qué, chống
cái bệnh lê thê, dài dòng, không biết chấm câu, là rất đáng hoan nghênh, nhưng
coi đó là “biệt lập ra một nhà” là nói quá đáng. Người viết văn gọn gàng và
chấm câu rành mạch đầu tiên, phải kể Phạm Duy Tốn. Ồng Tốn viết không nhiều, chỉ để lại vài truyện ngắn,
nhưng văn ông đã ảnh hưởng đến lớp trẻ. Trong tạp chí Nam Phong (số 18, tháng 12-1948) (?), truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn có đoạn:
Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp quần áo ướt đầm, tất tả chạy
xông vào, thở không ra hơi:
- Bẩm... Quan lớn... Đê vỡ mất rồi!
Ngài quay mặt vào, lại hỏi thầy đề:
-
Thày bốc quân
gì thế?
- Dạ bẩm con chưa bốc.
-
Thì
bốc chứ!
Cách đây gần 70 năm mà những câu văn trên đây tưởng như mới viết ngày nay.
Hoàng Tích Chu là người đã nhìn thấy trong văn
học hình thức phải đáp ứng nội dung, phải phục vụ đắc lực biểu hiện tư tưởng
tình cảm của tác giả. Đó là cái nhìn rất đúng
của anh. Còn những từ thì từ mà vốn có ý nghĩa và hiệu lực của nó. Đoạn văn trên đây của Phạm
Duy Tốn từ thì
trong câu: “Thì bốc chứ!” có ý nghĩa thúc dục phải làm ngay. Chỉ dùng không
đúng chỗ, câu văn mới hóa rườm rà.
Viết văn xuôi, cần phải cân nhắc, nhưng chưa đến nỗi phải cân nhắc bằng
thơ. Trong Truyện
Kiều tác phẩm văn vần bậc nhất của ta xưa và nay, Nguyễn Du đã dùng
những từ thì,
từ mà rất
đúng chỗ, muốn tước đi cũng không được.
Tuy rằng những từ mà và thì bị loại trừ một cách quá đáng trong lối "văn cộc”,
nhưng phải thừa nhận rằng lối văn Hoàng Tích Chu đã ảnh hưởng đến một số người
viết văn trẻ vào những năm 30 của thế kỷ này. Một số người đã bỏ hết những từ mà thì; còn một
số người, trong đó có tôi, tuy không viết lối văn Hoàng Tích Chu, nhưng cũng
đâm dè dặt trong khi dùng những từ thì, từ mà... Có một thời gian phong trào viết văn cộc đã dẫn người
ta đến viết quốc văn theo lối văn Tây, không biết rằng văn phạm mỗi nước một
khác. Viết lôi thôi, rườm rà, không biết chấm câu là rất
dở, nhưng cắt xén câu văn nhiều quá, bỏ hết những từ thì, từ mà, không
hiểu tác dụng của những từ ấy, làm cho câu văn tối nghĩa, đó là điều mà tính chất
trong sáng của tiếng Việt không bao giờ dung thứ.
Tôi vào Quảng Nam năm 1932, một cụ nhà nho rất hay thơ nôm, nói với tôi:
“Tôi vẫn đọc bài anh viết trên báo, không kể nội dung phải cái câu văn của anh Tây quá”. Lời nhận
xét ấy làm cho tối suy nghĩ rất nhiều, viết văn mà “Tây quá” thì còn đâu là
tính dân tộc! Ấy là mình chưa hẩn viết
lối “văn cộc”. Tôi đã cố gắng tìm tính hài hòa, cố gắng dùng chữ thật nôm, cùng lắm mới phải dùng những chữ Hán Việt, cố gắng khi viết
thì nghĩ đên người đọc, để ai cũng có thể hiểu ngay những ý mình muốn trình
bày, những tư tưởng tình cảm mình muốn thể hiện.
Tiếng Việt của ta là một thứ tiếng trong sáng, đó là phương châm mà tôi
phải nhớ trong khi viết.
Vào những năm 31, 32 Hoàng
Tích Chu cũng đã tự thấy phải
thay đổi lối viết của mình: viết văn cộc
không đạt hết ý, nhưng phải tránh không sa vào “lối văn thì thì mà mà” và “lối
văn vậy vậy”. Anh đã nói với tôi như thế.
Tôi đang trông đợi xem lối viết cân phân của anh về như thế nào, thì thốt nhiên tờ Đông Tây của anh bị thực dân Pháp rút
giấy phép.
Một buổi trưa hè năm 1932, tôi đã trông thấy bọn mật thám vừa Tây vừa ta
xông vào nhà in Trung Bắc tịch thu những tờ báo Đông Tây còn chưa ráo mực. Chỉ vì số
báo ấy đăng một bài thơ nhan đề là: "Cái Cháy’, ám chỉ tên tổng đốc Thái Bình họ Vi đà đùng chày để tra tấn, đánh
giập đầu gối những người chính trị phạm.
Không còn báo để viết, Hoàng Tích Chu rất buồn. Mùa thu năm 1932 anh
xuống chơi với tôi ở Thái Hà mặt buồn rười rượi, không còn vui tính như trước nữa. Mấy tháng sau, anh ốm
nặng. Tôi đến thăm anh ở phố Lê Lợi[6].
Anh còn rất tỉnh, nghe tiếng tôi nói, anh nhận ra
ngay, nhưng hai con mắt sắc sảo của anh lúc ấy đã phải che bằng hai mảnh the
đen, vì anh rất sợ ánh sáng. Ngày 25 tháng Giêng năm 1933 tức ngày 29 tháng
Chạp ta, anh mất để thương, để tiếc cho nhiều bạn trẻ trong làng văn làng báo
Việt Nam lúc bấy giờ./.
|
VŨ NGỌC PHAN TUYỂN TẬP
|
[1] Nhà in Trung Bác, ngoài việc in Trung Bắc tân văn và Annam nouveau của Nguyễn Văn
Vĩnh, còn in nhiểu sách báo khác, nên nhiều nhà văn, nhà báo thường đen nhà in này.
[2] Quảng cáo của hẫng sữa Nestlé có vẽ một em bé chừng
một tuổi rất
bụ bẫm ngổi bén hộp
sữa.
[3] Tức
được vào tam trường (kỳ thữ 3) tại khoa thi hương Nam Định (gọi là trường Nam),
[4] Ở Đông Dương hồi bấy giờ có cái nạn mà Thực dân Pháp gọi
là “Khủng hoảng về không bán được
gạo” (Crise de la mévent du riz).
[6] Nay là
phố Bà Triệu, nhà của Hoàng Tích Chu ở bên số lẻ, gần ngã tư Bà Triệu, Nguyễn
Du bây giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét