(Sóng Trẻ) - Trong bối cảnh của nền văn học và báo chí ở nước ta hiện nay, việc xác định một quan niệm đúng đắn về thể loại tiểu phẩm không chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu lý luận mà còn có những tác động tích cực đối với thực tiễn sáng tạo tác phẩm
1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của tiểu phẩm
Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho rằng tiểu phẩm đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, gắn liền với sự phát triển của báo chí phương Tây trong những hoàn cảnh lịch sử - xã hội đặc biệt. Đó là thời kỳ của những cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và xã hội phong kiến vốn đã mục ruỗng, thối nát. Như vậy, tiểu phẩm ra đời đã gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp và được coi là một trong những vũ khí lợi hại của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh ấy.
Là con đẻ của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, tiểu phẩm là tiếng nói của khuynh hướng vận động tích cực, hợp quy luật để chống lại những thế lực cản trở dòng chảy của lịch sử nhân loại. Nhiều nhà văn tiến bộ đã sử dụng thể loại này một cách có hiệu quả để châm biếm, giễu cợt những điều xấu xa, bất công, những biểu hiện giả dối, lừa bịp và những trì trệ, lạc hậu trong đời sống. Một số tác giả như Mông-ten, Vôn-te, Đi-đơ-rô, Lét-xinh, Héc-đơ, Ghéc-xen, Lỗ Tấn... thường được coi là những cây bút tiểu phẩm mẫu mực ở thời kỳ này.
Có thể lấy ví dụ về trường hợp của Lỗ Tấn – một cây bút tạp văn, tiểu phẩm nổi tiếng nhất trong văn học Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh tình trạng xã hội Trung Quốc ngày càng trở nên đen tối, hủ bại, qua các tác phẩm xuất sắc của mình, ông đã mổ xẻ tính cách của người Trung Quốc - nhất là của những kẻ cầm quyền một cách lạnh lùng và cay độc. Ông là người biết cách châm biếm sâu sắc những nhược điểm của dân tộc mình với một lòng yêu nước chân thành. Mặc dù bọn bồi bút của giai cấp thống trị khi đó luôn tìm cách dè bỉu các tác phẩm của Lỗ Tấn, nhưng không ai có thể nghi ngờ tinh thần dân tộc, sự phẫn nộ chân thành và nhất là tài năng của ông. Chính Lỗ Tấn đã nâng tiểu phẩm, tạp văn lên địa vị ngang hàng với những thể loại văn học khác, mở ra cho nó một chân trời phát triển rộng rãi và chiếm một địa vị vinh quang trong văn học Trung Quốc hiện đại…
Trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, khi còn đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, nhà báo Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tiểu phẩm sắc bén để vạch trần bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp và thức tỉnh các dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập. Chỉ riêng trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le procès de la colonisation francaise) xuất bản bằng tiếng Pháp (năm 1925) đã có hàng chục tiểu phẩm mẫu mực (như các mục viết về Ông Phuốc; Ông Lông; Ông Gác-bi; Ông Méc-lanh; Ông Giê-rê-mi-lơ-me; Ông U-tơ-rây (Chương III: Các quan toàn quyền, thống đốc) hoặc các Ông Xanh; Ông Đác-lơ; Quý ngài Bu-đi-nô, Bô-đoăng và những ngài khác (Chương IV: Các quan cai trị) [1] v.v… Với sự kết hợp những kiến thức của Đông - Tây kim cổ, kết hợp với kiến thức phong phú của cuộc sống hàng ngày; với tinh thần chiến đấu không khoan nhượng trước kẻ thù và với nghệ thuật châm biếm sâu sắc, các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc - trong đó có nhiều tiểu phẩm xuất sắc, đã trở thành những ngọn đòn mạnh mẽ giáng thẳng vào chế độ thực dân tàn bạo. Cũng chính những tác phẩm đó đã đặt nền móng cho nền văn học và báo chí cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trước đây, GS Lương Duy Thứ đã nhận thấy: không phải ngẫu nhiên mà nhà báo Nguyễn Ái Quốc thích đọc tác phẩm Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa. Đó là kết quả của một sự gặp gỡ trong quan niệm về sứ mệnh văn chương. Có thể nhận thấy bút pháp và giọng điệu châm biếm trong tiểu phẩm của Nguyễn Ái Quốc có nhiều điểm rất gần gũi với bút pháp, giọng điệu của Lỗ Tấn. Nhận xét chung về tiểu phẩm của Bác, PGS, TS Tạ Ngọc Tấn cho rằng: “Với sự nhạy bén về chính trị, bằng phương pháp nhìn nhận, xem xét khoa học, tinh tế, với nhiều thủ pháp điêu luyện mà giản dị… tiểu phẩm của Hồ Chí Minh có tính tư tưởng sâu sắc, tính chiến đấu cao, tạo nên cái cười sâu cay mà vẫn ý nhị, sắc sảo mà rất khách quan, quyết liệt mà rất thời sự. Đồng chí Trường Chinh đã nhận định chung về phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ”Về văn phong, cách nói hoặc cách viết của đồng chí Hồ Chí Minh có những nét rất độc đáo; nội dung khảng khái, thấm thía, đi sâu vào tình cảm con người, chinh phục cả trái tim và lý trí của người ta; hình thức sinh động, giản dị, dễ hiểu, giàu tính dân tộc và tính nhân dân”. Nhận định chung đó cũng rất xác đáng đối với riêng thể loại tiểu phẩm của Người” [2]
Ở nước ta, mặc dù nền báo chí xuất hiện chậm hơn so với các nước phương Tây nhưng ngay từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX, nhiều tiểu phẩm in trên báo đã gây được những tác động xã hội mạnh mẽ. Trong số những cây bút tiểu phẩm thời kỳ này, Ngô Tất Tố được coi là một trong những cây bút tiêu biểu nhất. Ông đã vận dụng cái vốn Nho học của mình để viết báo một cách đặc biệt xuất sắc với một văn phong hiện đại, hoàn toàn Việt Nam. Riêng về thể loại tiểu phẩm, ông xứng đáng được coi là người đứng đầu trong đội ngũ những cây bút thời kỳ đó. Với cái nhìn hiện thực tỉnh táo, với sự sâu sắc và dũng cảm của một tài năng và một nhân cách lớn, ông đã không ngần ngại vạch mặt chỉ tên kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân phong kiến và bọn tay sai của chúng.
Ngô Tất Tố không chỉ viết mỗi tiểu phẩm, tuy nhiên chính thể loại này đã được coi là “xương sống” trong sự nghiệp văn học và báo chí của ông. Chính ông đã góp phần nâng tiểu phẩm lên địa vị ngang hàng với những thể loại khác, đã mở ra cho nó một chân trời phát triển rộng rãi trong đời sống văn học và báo chí hiện đại ở nước ta như hiện nay. Tuỳ vào từng loại đối tượng cụ thể mà Ngô Tất Tố có lối châm biếm, trào lộng thích hợp với một vốn ngôn ngữ rất quần chúng. Từ những chuyện thời sự như Gôđa sang thăm Đông Dương; chuyện Tôlăngxơ về nước; cuộc tranh cãi để bênh vực thuyết “bảo hộ” hay “trực trị” của Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh; chuyện Phạm Huy Lục tranh cử nghị viện... đến rất nhiều điều lố lăng nực cười khác trong đời sống hàng ngày như nạn thầy lang giả, nạn mê tín dị đoan, nạn rượu lậu, thuốc phiện, nạn buôn bán văn chương… đều đã được tác giả vạch trần bản chất và phê phán một cách mạnh mẽ thông qua ngòi bút châm biếm vô cùng sắc bén. Chính vì thế, cũng giống như đối với tác phẩm của Lỗ Tấn ở Trung Quốc, bọn đế quốc và phong kiến ở nước ta trước đây luôn có thái độ hằn học ra mặt đối với các tác phẩm tiểu phẩm của Ngô Tất Tố.
Nhìn trên tiến trình vận động phát triển của tiểu phẩm trong văn học và báo chí Việt Nam gần một thế kỷ qua, có thể thấy rằng đây là một thể loại văn học có khả năng thích ứng với đời sống báo chí một cách hết sức nhạy bén. Trong những năm đổi mới ở nước ta, quá trình dân chủ hoá đời sống văn học và đời sống báo chí đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tiểu phẩm phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trên các báo Trung ương, báo ngành và báo địa phương, chuyên mục tiểu phẩm và hàng chục những chuyên mục có đăng tải tiểu phẩm đã trở thành một nét đặc trưng quan trọng của nền văn học và báo chí đổi mới ở nước ta. Những đối kháng dân tộc không còn, nhưng cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, tệ hối lộ, quan liêu vẫn rất gay gắt và ngày càng tinh vi phức tạp hơn, đòi hỏi tiểu phẩm phải đa dạng hơn, linh hoạt hơn. Tính chiến đấu với vũ khí châm biếm vốn là ưu thế của tiểu phẩm vẫn được phát huy một cách mạnh mẽ trong bối cảnh hiện đại.
Sẽ là không đầy đủ và không công bằng khi nói đến những đặc điểm của nền văn học và báo chí đổi mới ở nước ta mà lại không nhắc đến tiểu phẩm - một thể loại được ví như những “con dao mổ” sắc bén để trích vào những ung nhọt của cuộc sống.
2. Một số quan niệm về tiểu phẩm
Về những ưu thế của tiểu phẩm trong nền văn học và báo chí hiện đại thì không có gì phải bàn cãi, tuy nhiên đến nay vẫn đang còn những ý kiến rất khác nhau khi xác định về vị trí và những đặc điểm của thể loại này. Trong thực tế, thuật ngữ “tiểu phẩm” vẫn thường xuyên được các nhà nghiên cứu văn học và báo chí sử dụng nhưng với nhiều cách hiểu không giống nhau. Điều đó dẫn tới một thực trạng là có những tác phẩm tuy cùng được coi là tiểu phẩm nhưng lại có những tính chất, đặc điểm rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Bên cạnh đó, trong lý luận văn học lại có xu hướng sử dụng hai thuật ngữ “tiểu phẩm” và “tạp văn” như một thuật ngữ ghép vì cho rằng tiểu phẩm chỉ là một trong những dạng của tạp văn, được phân biệt với các dạng khác ở “tính chất chính luận” sắc bén và “tính chiến đấu” trước những cái xấu, cái lạc hậu trong xã hội.
Trong bối cảnh của nền văn học và báo chí ở nước ta hiện nay, việc xây dựng một quan niệm khoa học về tiểu phẩm không chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu lý luận mà còn có tác động tích cực đối với các chương trình đào tạo và đối với thực tiễn sáng tạo tác phẩm.
Vậy tiểu phẩm là gì ? Đó là thể loại văn học, là thể loại báo chí hay là một thể loại trung gian giữa văn và báo? Để có thể trả lời câu hỏi này, cần phải bắt đầu từ việc điểm qua những cách hiểu về thể loại.
Cho đến nay, ở nước ta đang tồn tại một số quan niệm sau đây:
Quan niệm thứ nhất: tiểu phẩm là một thể loại văn học đặc biệt, rất gần gũi với báo chí. Nó có những đặc điểm nổi bật là: hình thức ngắn gọn; nội dung có tính chiến đấu cao, năng động và linh hoạt do bám sát những con người, sự việc, vấn đề, tình huống có thật trong đời sống; thường sử dụng bút pháp châm biếm, đả kích. Đây là quan niệm khá phổ biến trong giới nghiên cứu lý luận văn học nước ta. Theo cách hiểu này, những tác giả viết tiểu phẩm nổi tiếng thường được nhắc tới là Lỗ Tấn, Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tất Tố…
Cũng chính do việc xác định những đặc điểm của tiểu phẩm như vậy nên các nhà nghiên cứu văn học đã xác định tiểu phẩm là một thể loại thuộc ký văn học (vì nó phản ánh những sự thật đời sống, mà đây lại là một đặc trưng quan trọng nhất của các thể ký văn học). Những người tán thành quan niệm này còn cho rằng:tiểu phẩm là một thể loại văn học có năng lực phản ánh những vấn đề thời sự. Tất nhiên, với tư cách là một thể loại văn học, tiểu phẩm không thể phản ánh được những sự kiện, vấn đề thời sự cấp bách đang nảy sinh hàng ngày hàng giờ một cách nhạy bén như các thể loại báo chí. Nhìn chung, nó chỉ có thể phản ánh những vấn đề thời sự hay chủ đề nào đó trong từng giai đoạn trong cuộc sống.
Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học còn cho rằng: tiểu phẩm là “thể loại tản văn ngắn gọn, xinh xắn nhưng giàu chất trữ tình (...) Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết lý, có loại thiên về tiểu sử, phong tục, phong cảnh, có loại nghiêng về phê bình văn học, có loại nghiêng về phổ biến khoa học, lại có loại thuần tuý trữ tình”... Phong cách chung của văn tiểu phẩm được xác định ở “tính hình tượng cô đọng, tính ngụ ý, ngữ điệu trò chuyện, tâm tình, bộc lộ trực tiếp nhân cách cá tính của tác giả, để lại ấn tượng nhẹ nhàng, khoáng đạt” [3].
Có một điều đáng chú ý là trong các nhà nghiên cứu văn học nước ta, còn có ý kiến muốn đặt hai thuật ngữ “tạp văn” và “tiểu phẩm” bên cạnh nhau thành một thuật ngữ ghép. Trên cơ sở cho rằng: tạp văn, tiểu phẩm là những tác phẩm ký văn học phản ánh những sự thật trong đời sống, những người tán thành cách hiểu này đã xác định những đặc điểm của thể loại tiểu phẩm được thể hiện qua các yếu tố: hình thức ngắn gọn; có tính chiến đấu cao với cảm hứng tố cáo mạnh mẽ; giọng điệu linh hoạt, gắn liền với cá tính sáng tạo của mỗi tác giả; thường sử dụng bút pháp trào lộng, hài hước, châm biếm…
Đi xa hơn nữa, GS. Hà Minh Đức còn nêu ra mối quan hệ giữa tạp văn, tiểu phẩm với bút ký chính luận: “Có tác giả dùng hình thức ký chính luận để tranh luận, phê phán kẻ thù nên trong những bút ký đó yếu tố châm biếm được vận dụng xen kẽ và có khi thâm nhập vào toàn bộ hình tượng và ngôn ngữ của bài văn (như trong tạp văn của Lỗ Tấn và nhiều tiểu phẩm văn học của Ngô Tất Tố)” [4].
Quan niệm thứ hai: xuất phát từ một trong những đặc điểm của tiểu phẩm là phản ánh những sự thật của đời sống và có thể đáp ứng yêu cầu tuyên truyền thời sự, quan niệm này cho rằng: “tiểu phẩm là một thể loại tác phẩm báo chí ngắn gọn, mang tính văn học, được diễn đạt bằng một ngôn ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước sự việc hoặc hiện tượng đó” [5]. Như vậy, cách hiểu này đã cho rằng tiểu phẩm là thể loại báo chí nhưng ít nhiều mang tính chất văn học với ngôn ngữ sinh động, giọng điệu châm biếm, hài hước.
Quan niệm thứ ba: tiểu phẩm là thể loại trung gian giữa văn học và báo chí. Những người tán thành quan niệm này cho rằng: trong từng tác phẩm cụ thể, do tính chất văn học hay tính chất báo chí mạnh hơn sẽ quyết định tác phẩm đó thuộc vào văn học hay báo chí. Theo ý kiến của PGS, TS Tạ Ngọc Tấn, chỉ đến cuối những năm 30 của thế kỷ trước, báo chí Xô-viết mới chính thức thừa nhận tiểu phẩm là một thể loại đặc biệt - một thể loại châm biếm nằm trong loại tác phẩm chính luận - nghệ thuật. So sánh tiểu phẩm với các thể loại báo chí, ông cho rằng “một đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm là sự kết hợp những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật. Sự kết hợp này rất phong phú, sinh động tuỳ theo tài liệu về sự kiện khách quan và tài năng của người viết” [6].
Những khác biệt trong các ý kiến nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xuất phát chính từ sự năng động và linh hoạt của tiểu phẩm trong quá trình phản ánh hiện thực. Trong thực tế, thể loại đặc biệt này đã thể hiện rất sinh động sự giao thoa giữa văn học và báo chí. Điều đó đã dẫn tới những ý kiến khác nhau trong việc xác định vị trí và những đặc điểm của nó. Cũng vì thế, có thể thấy rằng việc xác định tiểu phẩm là thể loại văn học hay thể loại báo chí là một trong những những điểm then chốt trước khi đi sâu hơn trong việc nhận diện đúng đắn về những đặc điểm thể loại của nó.
3. Nhận diện tác phẩm tiểu phẩm
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng: khi nói về tiểu phẩm, các nhà nghiên cứu trước đây thường chỉ đề cập đến một dạng của nó (là dạng văn xuôi) và chỉ coi những tác phẩm nào phản ánh sự thật mới là tiểu phẩm. Cách hiểu này có thể phù hợp với bối cảnh của những giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, hình thức biểu hiện của tiểu phẩm đã trở nên đa dạng hơn. Nó có thể xuất hiện trên báo chí dưới cả ba dạng: văn xuôi, đối thoại, văn vần và những hình thức kết hợp, giao thoa giữa các dạng này. Trong số đó, dạng tiểu phẩm văn vần chỉ gần giống chứ không phải là thơ châm biếm. Nó có thể bao gồm cả những hình thức rất đa dạng như “tân trang” lại nội dung (đặt lại lời) cho những bài thơ, bài hát theo hướng hài hước. Dạng tiểu phẩm đối thoại thường có dung lượng ngắn. Trong đó, tác giả tạo ra một nội dung hài thông qua một hình thức đối thoại với các cặp nhân vật nhiều khi chỉ mang tính chất giả định (như: thầy thuốc, bệnh nhân; thầy giáo - học sinh; sỹ quan - bình sỹ; vợ - chồng; anh - em và có khi chỉ là các nhân vật A - B v.v…). Như vậy, cùng với việc phản ánh những sự thật tiêu biểu, tác phẩm tiểu phẩm còn được sáng tạo trên cơ sở của thủ pháp hư cấu nghệ thuật. Tất nhiên, hư cấu ở đây được hiểu là những biện pháp được tác giả sử dụng nhằm bồi đắp thêm để tiểu phẩm có thể phản ánh hiện thực một cách chân thực hơn, sinh động hơn như yêu cầu chung đặt ra đối với bất cứ tác phẩm văn học nào khác.
Trong thực tế, có thể chia lực lượng tác gi9ả viết tiểu phẩm thành ba nhóm:các nhà báo, các nhà văn và các cộng tác viên của báo chí. Cả ba nhóm tác giả này đều thường xuyên tham gia viết tiểu phẩm, tuy nhiên tác phẩm của họ vẫn có những khác biệt nhất định. Các nhà báo thường có xu hướng chọn dạng tiểu phẩm văn xuôi và lấy đối tượng phản ánh là các sự kiện, sự việc thời sự, có thật mới xảy ra trong đời sống (chẳng hạn: một vụ tiêu cực ở Công ty A. mới bị phát hiện; một trận mưa lũ làm ngập phố Hà Nội; một vụ sạt đất làm chết nhiều người ở thị xã Cao Bằng; một cuộc tranh luận đang diễn ra xung quanh vấn đề Giải thưỡng về văn học nghệ thuật v.v…). Trong khi đó, các nhà văn tuy cũng chọn dạng tiểu phẩm văn xuôi nhưng thường đề cập đến những vấn đề thời sự nào đó đang thu hút sự quan tâm của công luận. Nhóm tác giả là các cộng tác viên báo chí bên cạnh việc sử dụng cả hai dạng tiểu phẩm văn xuôi kể trên còn có xu hướng dùng các dạng nhỏ khác của tiểu phẩm dưới dạng đối thoại, văn vần như đã nêu trên. Chính vì thế, không chỉ tác phẩm của các nhóm tác giả này không giống nhau mà quan niệm của họ về thể loại tiểu phẩm cũng không hoàn toàn giống nhau. Điều đó lý giải vì sao hễ cứ nói đến tiểu phẩm là lại thường xảy ra những bất đồng ý kiến giữa các nhóm tác giả.
4. Xác định một quan niệm về tiểu phẩm
Chúng tôi cho rằng: tiểu phẩm là thể loại văn học tồn tại trong môi trường báo chí, thể hiện những tính chất báo chí rất mạnh mẽ và năng động. Nói cách khác, tiểu phẩm là thể loại văn học tồn tại và phát huy sức mạnh của nó trong môi trường báo chí.
Không nên chỉ căn cứ vào một dạng tiểu phẩm (là dạng văn xuôi, lấy các sự việc, sự kiện có thật mới xuất hiện trong đời sống làm đối tượng phản ánh) để rồi coi tiểu phẩm là tác phẩm báo chí. Phải thấy rằng ngay trong trường hợp một tiểu phẩm lấy các sự việc, sự kiện có thật ra để phản ánh, bàn luận thì về mục đích, nó không chỉ dừng lại ở mức độ thông tin xác thực (vốn là đặc điểm quan trọng nhất của tác phẩm báo chí) mà nhằm đạt tới một hiệu quả cao hơn nhiều - đó là sử dụng lối tiếp cận độc đáo, không bình thường để tạo ra tiếng cười châm biếm, phê phán, giúp cho công chúng có thể hiểu về những sự thật ấy sâu hơn, bản chất hơn, hình ảnh hơn…
Chúng ta đều biết rằng: việc phản ánh sự thật không phải là đặc quyền của các tác phẩm báo chí. Văn học cũng có nhiệm vụ và năng lực phản ánh các sự thật của đời sống. Sẽ thật là sai lầm khi cứ nói đến văn học là cho rằng chỉ có hư cấu, bịa đặt. Trong năm loại thể của hệ thống thể loại văn học (bao gồm: Tự sự - Kịch - Trữ tình - Chính luận nghệ thuật - Ký văn học) thì đã có tới hai loại (là Chính luận nghệ thuật và Ký văn học) phản ánh sự thật (chứ không phải chỉ có hư cấu). Tất nhiên những sự thật đó vẫn phải được đặt trong sự chi phối của đặc trưng hình tượng.
Trong sự so sánh với tác phẩm văn học, bất cứ tác phẩm báo chí nào cũng phải tuân thủ sự chi phối gắt gao của áp lực thời sự, của yêu cầu về tính xác thực và tính định hướng trực tiếp. Chính những áp lực đó đã chi phối một cách toàn diện - kể từ dung lượng, ngôn ngữ, bút pháp cho đến cách thức tổ chức tác phẩm và hàng loạt yếu tố khác về nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí. Tiểu phẩm không có nhiệm vụ và cũng không có khả năng đáp ứng những yêu cầu đó. Trong quá trình lựa chọn sự thật để phản ánh, người viết tiểu phẩm thường quan tâm hơn đến tính điển hình của những sự thật ấy. Những sự việc, con người, tình huống được tái hiện trong tiểu phẩm không nhất thiết phải đảm bảo những yêu cầu về sự cặn kẽ, chính xác, tỷ mỷ và đáp ứng yêu cầu thời sự như trong các tác phẩm báo chí, mặc dù trong một số trường hợp nó cũng tỏ ra chính xác và nhạy bén không kém gì các tác phẩm báo chí.
Một căn cứ quan trọng khác cũng cho thấy không thể coi tiểu phẩm là tác phẩm báo chí là ở chỗ: tác phẩm tiểu phẩm có thể được sáng tạo ra bằng cách phản ánh những sự thật tiêu biểu, điển hình trong đời sống, hoặc cũng có thể được viết ra từ sự hư cấu, tưởng tượng trên cơ sở vốn sống và kinh nghiệm của tác giả, gắn với những vấn đề thời sự nào đó.
Là thể loại văn học nhưng lại hoạt động và phát huy năng lực phản ánh hiện thực chủ yếu là ở trong môi trường báo chí, đặc điểm dễ nhận thấy của tiểu phẩm trước hết là ở hình thức ngắn gọn. Dung lượng tác phẩm tiểu phẩm (ở dạng lớn nhất là dạng văn xuôi) cũng thường chỉ dao động trong khoảng vài trăm chữ. Với những tiểu phẩm ở các dạng văn vần và đối thoại, dung lượng có thể là cực ngắn, có khi chỉ còn vài chục chữ (tương đương với một tin vắn của báo chí). Chính sự ngắn gọn về dung lượng tác phẩm đã giúp cho tiểu phẩm có thể thích ứng với đời sống báo chí một cách hết sức năng động và nhạy bén bằng cách bám sát những vấn đề thời sự trong đời sống. Tất nhiên, thời sự cũng có nhiều cấp độ và tiểu phẩm không thể đáp ứng được yêu cầu thời sự cấp bách nảy sinh hàng ngày hàng giờ như các thể loại báo chí. Với tư cách là một thể loại văn học tồn tại trong môi trường báo chí, tiểu phẩm chỉ có thể phản ánh những vấn đề thời sự theo từng giai đoạn, từng chủ điểm nào đó.
Điểm nổi bật về phương diện nội dung của tiểu phẩm là ở tiếng cười thẩm mỹ được tạo ra thông qua hàng loạt những thủ pháp được sử dụng một cách linh hoạt. Trên cơ sở một nội dung có thật hoặc hư cấu, người viết tiểu phẩm tạo ra những hiện thực không bình thường nhằm tác động vào nhận thức, tình cảm của công chúng và tạo ra những phản xạ thẩm mỹ được biểu hiện trước hết bằng tiếng cười. Tất nhiên, cần nhấn mạnh rằng: tiếng cười chỉ là phương tiện để người viết tiểu phẩm đạt được những mục đích cao hơn như nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ v.v…
Cũng chính đặc điểm nêu trên đã cho thấy tiểu phẩm đã sử dụng cả hai con đườngtổng hợp và lựa chọn trong quá trình phản ánh hiện thực đời sống. Đó cũng là hai con đường mà văn học nghệ thuật nói chung thường sử dụng để xây dựng các hình tượng nghệ thuật. Người viết tiểu phẩm có thể sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật thông qua biện pháp hư cấu nghệ thuật từ những chi tiết phong phú thu lượm được từ đời sống hiện thực. Tác giả cũng có thể chọn lọc những sự thật tiêu biểu - người thật việc thật để phản ánh trong tác phẩm của mình như trường hợp các tác phẩm của nhà báo Lỗ Tấn, Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tất Tố ở thế kỷ trước. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, đặc trưng hình tượng vẫn chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo để hình thành tác phẩm. Điều đó cho thấy, những sự thật mà tiểu phẩm lựa chọn từ trong đời sống để đưa vào tác phẩm phải đáp ứng được những tiêu chí của tính điển hình và phải được sàng lọc thông qua thái độ thẩm mỹ của tác giả. Đó cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Bác Hồ trước sau vẫn chỉ coi mình là nhà báo, nhưng những sáng tác của Người (mà trong đó tiểu phẩm có một vị trí rất quan trọng) vẫn cho thấy một tài năng văn học xuất chúng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: cũng như các thể loại văn học khác, tác phẩm tiểu phẩm được sáng tạo ra theo những quy luật đặc thù của sáng tạo nghệ thuật chứ không phải bằng các sự kiện, vấn đề cụ thể, xác thực (vốn được coi là đặc trưng của tác phẩm báo chí). Người viết tiểu phẩm chọn những hoàn cảnh, những tình huống tiêu biểu, điển hình nhất và cố gắng trình bày về nó trong một hình thức tiết kiệm lời nhất dưới sự chi phối của đặc trưng này.
Cũng chính điều này còn cho thấy: không nên coi tiểu phẩm là một thể loại thuộc ký văn học. Nó chỉ giống các thể ký ở chỗ cùng nằm trong khu vực giao thoa với báo chí và có thể kết hợp được những tính chất của cả văn học và báo chí, nhưng nó khác ký ở chỗ ngoài việc lựa chọn sự thật còn có thể sử dụng hư cấu nghệ thuật để xây dựng hình tượng. Rõ ràng là so với các thể ký văn học, tiểu phẩm có cách thức, phương pháp phản ánh hiện thực phong phú hơn, đa dạng và sinh động hơn. Điểm khác biệt quan trọng khác của nó so với các thể ký là sử dụng tiếng cười như một vũ khí để đấu tranh cải tạo hiện thực.Có thể thấy tiếng cười là đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm trong sự so sánh với những thể loại văn học khác. Tất nhiên tiếng cười không phải là mục đích của tiểu phẩm. Nó chỉ được coi là phương tiện thể hiện đặc trưng thể loại, nhằm giúp cho tác giả thể hiện góc nhìn của mình trước đời sống, tạo cơ sở để đạt đến những mục đích cao hơn như: đấu tranh, phê phán, giáo dục… Tuy nhiên, không thể phủ nhận được rằng chính tiếng cười đã giúp cho tiểu phẩm có tính chiến đấu sắc bén đặc biệt mà không phải thể loại văn học nào cũng có được.
Nói tóm lại, có thể khẳng định rằng: tiểu phẩm là một thể loại văn học năng động, có thể phát huy năng lực phản ánh hiện thực một cách rất hiệu quả trong môi trường báo chí. Đây cũng là một trong những thể loại cho thấy sự kết hợp một cách sinh động những tính chất của văn học và báo chí trong quá trình phản ánh hiện thực đờì sống đang vận động phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Công cuộc đổi mới toàn diện trên nước ta hiện nay đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thể loại tiểu phẩm phát triển ngày càng mạnh mẽ trên báo chí. Hầu như không báo nào lại không có chuyên mục đăng tải tiểu phẩm. Tính chiến đấu và vũ khí châm biếm vốn là những ưu thế của thể loại này vẫn được phát huy một cách hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng của nền văn học và báo chí hiện đại Việt Nam./.
PGS, TS Đức Dũng
Khoa Phát thanh - Truyền hình
Tài liệu tham khảo:
(1) Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, từ trang 28 đến 44.
(2) Tạ Ngọc Tấn, Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2000, tr.21.
(3) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1992, tr.291, 292.
(4) Hà Minh Đức, “Các thể ký văn học”, Lý luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1993, tr.207.
(5) Nhiều tác giả, Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam, Hà Nội, 1992, tr.248.
(6) Tạ Ngọc Tấn, Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1999, tr.200.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét